Bản án 44/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 44/2020/HS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2020/TLST-HS, ngày 04 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Thanh T, tên gọi khác: T.đ; sinh năm 1980; tại tỉnh Lâm Đồng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trúđường Y, tổ 15, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú trước khi bị bắt: đường T, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh K, sinh năm 1945 và bà Dương Thị K, sinh năm 1951, cùng trú tại: đường T, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; vợ: Lê Lâm Mộng T, sinh năm 1980, con: Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2009 và con nhỏ nhất sinh năm 2015, cả ba cùng trú tại: đường Y, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 22/11/2010, bị UBND Tp. B, tỉnh Lâm Đồng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng theo Quyết định đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh số 1873/QĐ-UBND, đã chấp hành xong vào ngày 06/11/2002.

+ Ngày 23/5/2018, bị Công an Tp. B, , tỉnh Lâm Đồng xử phạt số tiền 1.500.000đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 09/QĐ-XPVPHC, đã nộp phạt ngày 25/5/2018.

+ Ngày 14/02/2020, bị Công an phường Lộc Phát, Tp. B xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 49/QĐ-XPHC. Ngày 15/02/2020 Huỳnh Thanh T mới nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 49/QĐ-XPHC ngày 14/02/2020, nhận được quyết định này sau ngày thực hiện hành vi phạm tội nên không bị xem là có tiền sự.

Bị cáo bị bắt và bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Tp. B từ ngày 18/02/2020 đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

1. Chị Bạch Thị H, sinh năm 1983. Địa chỉ: đường T, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bà Trần Thị L, sinh năm 1974. Địa chỉ: đường C, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 14/02/2020, Huỳnh Thanh T đi bộ ngang qua tiệm cắt tóc Thu Phương, tại địa chỉ đường P, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 49K1-465.51 của chị Bạch Thị H, sinh năm 1983, cư trú tại đường T, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng đang để trước cửa tiệm, T thấy trên xe cắm sẵn chìa khóa nhưng không có người trông coi nên đi đến mở khóa điện rồi nổ máy điều khiển xe mô tô trộm cắp được của chị H chạy đến nhà ông Nguyễn Thế N, sinh năm 1964, tại thôn 16, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng chơi. Trong lúc ông N không để ý, T tháo biển số xe 49K1-465.51 vứt vào bên hông nhà ông Ng rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà.

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 17/02/2020, T điều khiển xe mô tô đã trộm cắp đến tiệm bắn cá DuBai tại phường Lộc Sơn, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng và nhờ Huỳnh Hoàng B, sinh năm 1985, cư trú tại đường N, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng đi cầm cố tài sản giùm thì Bảo đồng ý. T điều khiển xe mô tô nêu trên chở B đến tiệm bắn cá T tại phường B, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng tìm người cầm xe nhưng không được nên T ở lại tiệm bắn cá T và giao xe cho B chạy đến tiệm bắn cá tại đường T, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng do chị Nguyễn Thị Thùy H, sinh năm 1980, trú tại đường P, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng làm chủ, B nhờ chị H cầm cố xe mô tô nêu trên nhưng chị H không đồng ý cầm cố. Lúc này, Huỳnh Thanh T nhờ Nguyễn Khánh T, sinh năm 1994, trú tại đường T, phường B, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng (còn gọi là M.Đ) chở đến tiệm bắn cá nêu trên tìm gặp B để lấy lại xe mô tô đã trộm cắp, rồi T một mình điều khiển xe mô tô về nhà ở đường T, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng cất giấu. Đến 21 giờ 30 phút cùng ngày 17/02/2020, Huỳnh Thanh T bị Cơ quan điều tra bắt quả tang cùng tang vật. Quá trình điều tra đã thu giữ được 01 biển số 49K1-465.51 ở bên hông nhà ông N.

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 15/ KL-HĐĐG ngày 20/02/2020 của Hội đồng định giá Tp. B, tỉnh Lâm Đồng xác định: Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 49K1-465.51, trị giá 16.800.000đ (mười sáu triệu tám trăm ngàn đồng). Ngoài ra, Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, Huỳnh Thanh T khai nhận còn thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 03/02/2020, Huỳnh Thanh T mượn xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh (không rõ biển số) từ 01 đối tượng tên L (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Sau đó, T chạy đến nhà bà Trần Thị L, sinh năm 1974, địa chỉ đường C, Phường 2, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng thấy trong nhà có các bao cà phê nhân không có ai trông coi, T dựng xe trước cửa, đi vào trong nhà lấy trộm được 01 bao cà phê nhân trọng lượng 60kg thì bị người dân phát hiện tri hô. T chở bao cà phê trộm cắp được đến tiệm thu mua cà phê N.T do ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1965, trú tại thôn 16, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng làm chủ, bán được 1.800.000đ. Sau đó, T trả lại xe cho L và sử dụng hết số tiền có được để mua ma túy từ 01 đối tượng không rõ nhân thân, lai lịch tại khu vực bờ hồ Tp. B để sử dụng.

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 28/KL-HĐĐG ngày 18/3/2020 của Hội đồng định giá Tp. B xác định: 01 bao cà phê nhân trọng lượng 60kg trị giá 1.860.0000đ (một triệu tám trăm sáu mươi ngàn đồng).

Bản Cáo trạng số 51/CT-VKSBL, ngày 04 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Huỳnh Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh T từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Miễn phạt bổ sung.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại chị Bạch Thị H không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét. Buộc bị cáo bồi thường cho bà Trần Thị L trị giá 01 bao cà phê nhân khô 60kg là 1.860.000đ.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng đã ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại cho chị Bạch Thị H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 49K1-465.51 nên không xem xét.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Thanh T đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; Kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại; lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Huỳnh Thanh T là người sử dụng ma tuý. Trong khoảng thời gian từ ngày 03/02/2020 đến ngày 14/02/2020 tại địa bàn thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, Huỳnh Thanh T đã trộm cắp được 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 49K1-465.51 của chị Bạch Thị H và 01 bao cà phê nhân trọng lượng 60kg của bà Trần Thị L. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 18.660.000đ (mười tám triệu, sáu trăm sáu mươi ngàn đồng).

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 51/CT-VKSBL, ngày 04 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, mục đích chiếm đoạt tài sản để có tiền tiêu xài thoả mãn cho bản thân và với thái độ xem thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo gây mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Về phạt bổ sung: Bị cáo là người sử dụng ma tuý, không có nghề nghiệp nên miễn phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

Quá trình điều tra Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng đã ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại cho chị Bạch Thị H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc, biển số 49K1-465.51; bao cà phê không thu hồi được nên không xem xét.

[10] Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự và Điều 589 Bộ luật dân sự, giải quyết như sau: Quá trình điều tra, bị hại chị Bạch Thị H không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét. Bà Trần Thị L yêu cầu bồi thường số tiền 1.860.000đ, tại phiên toà bị cáo đồng ý bồi thường nên ghi nhận.

[11] Các vấn đề khác:

Đối với anh Huỳnh Hoàng B, anh Nguyễn Khánh T là những người giúp Huỳnh Thanh T đi cầm cố tài sản. Tuy nhiên, những người này không biết các tài sản là do bị cáo T phạm tội mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự.

Đối với đối tượng tên L là người đã cho bị cáo Huỳnh Thanh T mượn xe mô tô và đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo T. Quá trình điều tra, chưa xác định được nhân thân, lai lịch đối tượng này nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xác minh để xử lý sau.

[12] Xét đề nghị và luận tội của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa là căn cứ chấp nhận một phần. Về áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không được chấp nhận, vì bị cáo T thực hiện hành vi trộm cắp 02 lần vào ngày 03/02/2020 và ngày 14/02/2020.

[13] Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ..., án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[14] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh T, tên gọi khác T.đ 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/02/2020.

3. Về bồi thường Thiệt hại: Buộc bị cáo phải bồi thường cho bà Trần Thị L số tiền 1.860.000đ (một triệu, tám trăm sáu mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được qui định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Huỳnh Thanh T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:44/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về