Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 44/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 11 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 225/2020/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 672/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 749/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Hương Q, sinh năm 1998; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 899A Nguyễn Văn L, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; tạm trú tại: Lô 397 khu tái định cư T phường V, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Trung T, sinh năm 1984; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 899A Nguyễn Văn L, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; lần thứ hai vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn; bản tự khai; biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa, nguyên đơn (chị Trần Hương Q) trình bày: Tôi với anh Trần Trung T tự nguyện xây dựng gia đình với nhau từ năm 2016 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; việc lấy nhau được gia đình hai bên đồng ý tổ chức hỏi cưới.

Ngay từ sau khi kết hôn, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng về cách sống, quan điểm sống. Anh T chơi bời, không chịu làm ăn, không có trách nhiệm chăm lo cho cuộc sống chung trong khi con của chúng tôi lại nhỏ, vợ chồng không có việc làm, sống phụ thuộc vào bố mẹ hai bên. Tôi đã nhiều lần khuyên nhủ anh T nhưng không có kết quả từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Trong sinh hoạt hàng ngày anh T có những lời nói, hành động không chuẩn mực, đập phá đồ đạc trong gia đình khi căng thẳng bức xúc. Từ cuối năm 2019, mâu thuẫn trở nên trầm trọng, cuộc sống chung ngày càng căng thẳng, ngột ngạt nên từ tháng 02/2020 tôi đã về ở cùng bố mẹ đẻ, vợ chồng ly thân từ đấy và không còn quan hệ với nhau về mọi mặt; đến tháng 5/2020 tôi đã đưa con về ở cùng với tôi. Từ thời gian đó đến nay anh T không quan tâm, chăm sóc và hỏi han gì đến mẹ con tôi. Vợ chồng cũng được hai bên gia đình khuyên giải động viên nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn anh T.

- Về con chung: Tôi và anh Trần Trung T có 01 con chung là Trần Ngọc Quang V, sinh ngày 02/10/2017; từ khi sống ly thân đến nay cháu đang ăn ở, sinh hoạt ổn định cùng tôi. Nay ly hôn tôi đề nghị Tòa án giao cháu cho tôi được tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, tôi và anh T sẽ tự thỏa thuận giải quyết với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Tôi và anh T không có tài sản chung, về công nợ chúng tôi không có công nợ với ai, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, anh Trần Trung T mặc dù đã được nhận các văn bản của Tòa án giao đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vắng mặt tại các buổi làm việc và tại phiên tòa.

Tại biên bản thu thập chứng cứ, đại diện gia đình anh Trần Trung T và đại diện địa phương nơi chị Q và anh T cư trú cho biết: Chị Trần Hương Q và anh Trần Trung T lấy nhau có đăng ký kết hôn, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại địa phương. Trong quá trình chị Q và anh T chung sống có xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng về cách sống, quan điểm sống, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng không có kết quả. Từ đầu năm 2020 đến nay, chị Q và anh T đã sống ly thân mỗi người một nơi. Đến nay chị Q xin ly hôn anh T thì gia đình và đại diện tổ dân phố đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định pháp luật giải quyết. Về con chung: Chị Q và anh T có 01 con chung là Trần Ngọc Quang V, sinh ngày 02/10/2017, hiện cháu đang ở cùng chị Q; nếu hai bên ly hôn thì gia đình đề nghị Tòa án giao cháu Vinh cho chị Q nuôi dưỡng đến khi trưởng thành, về cấp dưỡng nuôi con chung của anh chị gia đình và địa phương không có ý kiến gì. Về tài sản và công nợ chung của anh chị, gia đình và tổ dân phố đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, nên không có ý kiến gì.

Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ kiện đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý, thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, việc giao các văn bản cho các bên. Về phía nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ theo quy định tố tụng dân sự khi tham gia tố tụng; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ theo quy định tố tụng dân sự khi tham gia tố tụng.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Hương Q được ly hôn anh Trần Trung T. Về con chung:

Giao con chung Trần Ngọc Quang V, sinh ngày 02/10/2017 cho chị Q được trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi; về cấp dưỡng nuôi con chung chị Q sẽ tự thỏa thuận giải quyết với anh T, do vậy không đặt ra xét giải quyết. Về tài sản chung, công nợ: Chị Q trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên không đặt ra xét giải quyết.

Về án phí: Chị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tố tụng:

[1] Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, tại các buổi làm việc, hòa giải và tại phiên tòa anh Trần Trung T đều vắng mặt không có lý do, mặc dù đã nhận được các văn bản tố tụng hợp lệ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, qua đó cho thấy anh T đã tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ của anh khi tham gia tố tụng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị Trần Hương Q và anh Trần Trung T tuân thủ đúng quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Tại bản tự khai và trình bày của nguyên đơn thể hiện quá trình anh T, chị Q chung sống có phát sinh mâu thuẫn và trầm trọng nhất từ cuối năm 2019 đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên bất đồng cách sống, quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên xảy ra cãi vã; vợ chồng cũng được hai bên gia đình khuyên giải động viên nhiều lần nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, hai bên đã sống ly thân từ đầu năm 2020 đến nay không còn quan hệ gì với nhau về tình cảm, kinh tế; điều này phù hợp với ý kiến trình bày của đại diện gia đình anh T và chính quyền địa phương cung cấp. Qua đó cho thấy mâu thuẫn giữa hai bên đã thực sự trầm trọng, cuộc sống chung của hai bên không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt. Việc chị Q xin được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Q và anh T có 01 con chung là Trần Ngọc Quang V, sinh ngày 02/10/2017; nay ly hôn chị Q có nguyện vọng tiếp tục được nuôi dưỡng, chăm sóc đến đủ 18 tuổi. Xét con chung của chị Q và anh T hiện đang ở cùng chị Q ổn định và chưa đủ 36 tháng tuổi, nên việc chị Q có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng là chính đáng, phù hợp với thực tế, phù hợp với ý kiến của đại diện gia đình anh T và ý kiến của chính quyền địa phương cũng như ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung của chị Q và anh T theo quy định pháp luật. Căn cứ khoản 3 Điều 81; Điều 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên yêu cầu của chị Q cần được chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị Q có ý kiến sẽ tự thỏa thuận giải quyết với anh T, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết; nên Hội đồng xét xử không đặt ra xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Q trình bày chị và anh T không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xét giải quyết.

Sau này hai bên có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, về cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn sẽ được giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[6] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà Nước theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 3 Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Hương Q được ly hôn anh Trần Trung T.

2. Về con chung: Giao con chung là Trần Ngọc Quang V, sinh ngày 02/10/2017 cho chị Trần Hương Q trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị Q đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo Biên lai thu tiền số 0013767 ngày 04/6/2020.

Chị Q có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:44/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về