Bản án 44/2019/HS-ST ngày 26/10/2019 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 26/10/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Trong ngày 26 tháng 10 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 54/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Võ Thị L, sinh năm 1975 tại tỉnh Quảng Ngãi;

Nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố X, thị trấn C, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Chỗ ở hiện nay: Thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ T (tên gọi khác: Võ Văn T), sinh năm 1950 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1952; Chồng: Phạm Tài T, sinh năm 1974; Con: có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2019 đến ngày 25/01/2019 thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Tài T, sinh năm 1974 tại tỉnh Quảng Ngãi.

Nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố X, thị trấn C, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Chỗ ở hiện nay: Thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

Nghề nghiệp: thợ hớt tóc; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đ (chết) và bà Lâm Thị M, sinh năm 1932 sống tại tổ dân phố X, thị trấn C, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi; Vợ: Võ Thị L, sinh năm 1975; Con: có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 04/01/2019 đến ngày 13/01/2019 thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Võ Qu, sinh năm 1979; Có mặt.

- Anh Võ Văn H, sinh năm 1979; Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

Cùng nơi cư trú: Thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bà Trịnh Thị Tuyết H, sinh năm 1968; Có mặt.

Nơi cư trú: Thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt nhƣ sau:

Bị cáo Phạm Tài T và Võ Thị L là vợ chồng, sống ở Thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Trong quá trình buôn bán tại nhà, Võ Thị L và Phạm Tài T bàn bạc thống nhất với nhau cùng bán số lô, số đề nhằm thu lợi bất chính.

Vào ngày 03/01/2019, Phạm Tài T và Võ Thị L có bán số lô, số đề cho một số đối tượng theo kết quả xổ số kiến thiết của đài Miền Trung (Quảng Trị) và đài Miền Bắc. Đến khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày, trong lúc Võ Thị L đang bán số đề cho Võ Qu, sinh năm 1979, ở tại thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi tại nhà thì bị Công an huyện Bình Sơn phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Tài T, Võ Thị L và ra quyết định tạm giữ đối với các bị cáo.

Ti hiện trường tang vật tạm giữ gồm có:

Tiền mặt 6.805.000 đồng thu giữ trong người Võ Thị L;

Tin mặt 1.780.000 đồng thu giữ trong người Phạm Tài T;

Ba (03) tờ giấy A4 ghi số lô, số đề của đài miền Trung và miền Bắc được đánh thứ tự 01, 02, 03 (Võ Thị L có ký xác nhận các tài liệu này);

Bn (04) cây bút bi màu xanh, hiệu Thiên Long số TL 027; Một (01) cây bút bi màu đỏ, hiệu Thiên Long số TL 027;

Mt (01) máy tính cầm tay hiệu Casio màu xám số hiệu LC 403TV; Một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 3310 màu đen trắng;

Mt (01) điện thoại di động hiệu Nokia 130 màu cam;

Mt (01) cái kéo có kích thước dài 13 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 6,5 cm, phần cán làm bằng nhựa màu vàng dài 6,5 cm;

Ba mươi (30) tờ giấy, mỗi tờ có kích thước (8 x 6) cm;

Bn (04) tờ giấy, mỗi tờ có kích thước (8 x 6) cm, bên trong ghi số lô, số đề. Qua kết quả điều tra xác định: Vào ngày 03/01/2019, Võ Thị L và Phạm Tài T bán số lô, số đề theo kết quả xổ số của tỉnh Quảng Trị với số tiền: 17.887.000 đồng (Mười bảy triệu, tám trăm, tám mươi bảy nghìn đồng) và bán số lô, số đề theo kết quả xổ số miền Bắc với số tiền 11.160.000 đồng (Mười một triệu, một trăm sáu mươi nghìn đồng). Tại thời điểm bắt quả tang, đã có kết quả xổ số của tỉnh Quảng Trị; kiểm tra giữa kết quả xổ số của tỉnh Quảng Trị và tịch ghi đề xác định được số tiền trúng thưởng số lô, số đề là 22.050.000 đồng (Hai mươi hai triệu, không trăm, năm mươi nghìn đồng). Như vậy, tổng số tiền Phạm Tài T và Võ Thị L đánh bạc vào ngày 03/01/2019 là 51.097.000 đồng (Năm mươi mốt triệu, không trăm, chín mươi bảy nghìn đồng).

Ngày 13/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Sơn ra Quyết định khởi tố bị can đối với Võ Thị L và Phạm Tài T về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Võ Thị L, đến ngày 25/01/2019 thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Đối với Phạm Tài T được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Qua quá trình đánh giá các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án trong giai đoạn truy tố nhận thấy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Sơn đề nghị truy tố các bị can Võ Thị L và Phạm Tài T về tội danh “Đánh bạc” là chưa phù hợp với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện. Bởi vì, vào ngày 03/01/2019, các bị can Võ Thị L và Phạm Tài T tổ chức đánh bạc dưới hình thức bán số lô, số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của đài miền Trung và đài miền Bắc với tổng số tiền là 51.097.000đồng (bao gồm tiền bán số lô, số đề của hai đài và tiền trúng thưởng của đài Quảng Trị) và không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh Võ Thị L chuyển tịch số lô, số đề của người nào khác để hưởng tiền hoa hồng mà sau khi có kết quả xổ số của các đài, Võ Thị L là trực tiếp chung tiền cho người trúng nên hành vi của các bị cáo của Võ Thị L và Phạm Tài T phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự (tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000đồng trở lên).

Ngày 24/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn ra Quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung số 456, ngày 24/7/2019 để thay đổi tội danh đối với hành vi của Võ Thị L và Phạm Tài T về tội “Tổ chức đánh bạc”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Ngày 26/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Sơn ra Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố vụ án hình sự và Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố bị can đối với: Võ Thị L và Phạm Tài T về tội: “Tổ chức đánh bạc” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Đi với những người mua số lô, số đề trong ngày 03/01/2019 của Võ Thị L và Phạm Tài T, trong quá trình điều tra không xác định được tên, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Sơn tiếp tục xác minh, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Đi với Võ Văn H (tên gọi khác là: Mười), sinh năm 1979, ở tại thôn Ph, xã B, huyện S là người mua số lô, số đề của Võ Thị L và Phạm Tài T vào ngày 03/01/2019 nhưng số tiền mua dưới 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và Võ Văn H chưa có tiền án, tiền sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Sơn có công văn đề nghị Trưởng Công an xã B xử phạt vi phạm hành chính.

Đi với Võ Qu, tại thời điểm bắt quả tang chưa đánh bạc nên không đặt ra để xử lý là có căn cứ. Theo lời khai của Võ Thị L thì sau khi bán số lô, số đề xong Võ Thị L có chuyển tịch cho Trịnh Thị Tuyết H, sinh năm 1968, ở thôn Ph, xã B để hưởng hoa hồng. Tuy nhiên, qua quá trình điều tra, Trịnh Thị Tuyết H không thừa nhận có nhận tịch số lô, số đề của bị cáo Liên và Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Sơn không có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở xử lý đối với Trịnh Thị Tuyết H.

Mt khác, quá trình điều tra Võ Thị L và Phạm Tài T khai nhận ngoài hành vi bán số lô, số đề vào ngày 03/01/2019 thì trước ngày 03/01/2019 có nhiều lần bán số lô, số đề. Tuy nhiên, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Sơn không thu giữ được vật chứng, không đủ cơ sở xác định được số tiền bán số lô, số đề và số tiền thu lợi bất chính của các lần trước đó nên không có cơ sở xử lý là có căn cứ.

Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thị L và Phạm Tài T khai nhận đúng hành vi phạm tội như trên, thống nhất với Kết luận giám định, kết luận điều tra của Cơ quan điều tra – Công an huyện Bình Sơn và Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn.

Tại Bản Cáo trạng số 44/CT–VKS, ngày 10/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố đối với Võ Thị L và Phạm Tài T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi giữ nguyên Quyết định truy tố đối với Võ Thị L và Phạm Tài T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

Đi với bị cáo Võ Thị L áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt tiền bị cáo Võ Thị L từ 70.000.000 đ (bảy mươi triệu đồng) đến 90.000.000 đ (chín mươi triệu đồng).

Đi với bị cáo Phạm Tài T áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 và Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt tiền bị cáo Phạm Tài T từ 50.000.000 đ (năm mươi triệu đồng) đến 70.000.000 đ (bảy mươi triệu đồng).

Về hình phạt bổ sung: Không.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: Bốn (04) cây bút bi màu xanh, hiệu Thiên Long số TL 027; Một (01) cây bút bi màu đỏ, hiệu Thiên Long số TL 027; Một (01) cái kéo có kích thước dài 13 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 6,5 cm, phần cán làm bằng nhựa màu vàng dài 6,5 cm; Ba mươi (30) tờ giấy, mỗi tờ có kích thước (8 x 6) cm (giấy trắng) và Bốn (04) tờ giấy, mỗi tờ có kích thước (8 x 6) cm, bên trong ghi số lô, số đề; vì các vật chứng này không còn giá trị sử dụng.

Tch thu ngân sách Nhà nước các vật chứng gồm: Một (01) máy tính cầm tay hiệu Casio màu xám số hiệu LC 403TV; Một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 3310 màu đen trắng; Một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 130 màu cam; vì các vật chứng này còn giá trị sử dụng. Đối với ba (03) tờ giấy A4 ghi số lô, số đề của đài miền Trung và miền Bắc được đánh thứ tự 01, 02, 03 được lưu trong hồ sơ vụ án tại bút lục số: 115, 116, 117 không tịch thu tiêu hủy.

Tch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền sử dụng vào mục đích tổ chức đánh bạc của bị cáo L và bị cáo T là: 51.097.000 đồng (năm mươi mốt triệu, không trăm chín mươi bảy nghìn đồng), gồm: Tiền bán số lô, số đề 29.047.000đồng và tiền sử dụng vào mục đích chung trúng thưởng 22.050.000đồng, nhưng được khấu trừ số tiền Cơ quan điều tra đã tạm giữ 8.585.000 đồng buộc bị cáo L và bị cáo T phải tiếp tục nộp số tiền còn lại là: 42.512.000 đồng (mỗi bị cáo nộp 21.256.000đồng).

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo L và T xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và áp dụng hình phạt tiền cho các bị cáo.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng khác: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:

[1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên thu thập và người tham gia tố tụng khác cung cấp là phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[2] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh đối với bị cáo L và bị cáo T của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân là có căn cứ và phù hợp. Quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa, người có quyền, nghĩa vụ liên quan anh Võ Văn H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, khi cần thiết chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của ông H nên không cần thiết hoãn phiên tòa, áp dụng khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thị L và bị cáo Phạm Tài T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Bị cáo Phạm Tài T và bị cáo Võ Thị L có quan hệ là vợ chồng cùng sống chung ở Thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Bị cáo Võ Thị L làm nghề buôn bán tạp hóa nhỏ lẻ. Bị cáo Phạm Tài T làm nghề thợ hớt tóc. Do thu nhập không đủ chi tiêu cho gia đình nên cả hai bị cáo cùng bàn bạc thống nhất với nhau cùng bán số lô, số đề cho một số người chơi đánh đề nhằm thu lợi bất chính.

Vào ngày 03/01/2019, Phạm Tài T và Võ Thị L có bán số lô, số đề cho một số đối tượng theo kết quả xổ số kiến thiết của đài Miền Trung (đài Quảng Trị) và đài Miền Bắc. Đến khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày, trong lúc Phạm Tài T đang bán số đề cho Võ Qu, sinh năm 1979, ở tại thôn Ph, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi tại nhà thì bị Công an huyện Bình Sơn phát hiện và bắt phạm tội quả tang đối với bị cáo Phạm Tài T và Võ Thị L.

Bị cáo L và bị cáo T thừa nhận, khi bị bắt phạm tội quả tang, Công an huyện Bình Sơn có thu giữ tại nhà của vợ chồng L và T các vật chứng có liên quan đến việc ghi số lô, số đề như Công an huyện Bình Sơn lập biên bản thu giữ và Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn nêu tại cáo trạng là hoàn toàn đúng. Các bị cáo thừa nhận các vật chứng này được sử dụng vào mục đích ghi số lô, số đề, tính tiền cho người chơi, số tiền thu giữ trên người các bị cáo là tiền do người chơi trả tiền đánh số lô, số đề. Các bị cáo bán số lô, số đề mục đích chuyển tịch đề cho Trịnh Thị Tuyết H để hưởng hoa hồng 29.5% trên tổng số tiền bán được.

Bị cáo Võ Thị L và bị cáo Phạm Tài T thừa nhận, vào ngày 03/01/2019 hai bị cáo đã bán số lô, số đề được ghi trong 03 tịch đề gồm: 03 tờ giấy A4 như tài liệu Công an huyện Bình Sơn đã thu được, tổng số tiền bán số lô, số đề theo kết quả sổ số kiến thiết tỉnh Quảng Trị là: 17.887.000đồng và theo kết quả sổ số kiến thiết Miền Bắc là: 11.160.000đồng. Tại thời điểm bắt quả tang, đã có kết quả sổ số kiến thiết tỉnh Quảng Trị, số tiền người chơi đánh trúng số lô là: 315.000 đồng * 70 lần, tương ứng số tiền trả thưởng là: 22.050.000 đồng. Các bị cáo không xác định được đã trả thưởng cho ai và trả thưởng bao nhiêu tiền. Riêng kết quả sổ số kiến thiết Miền Bắc chưa xổ số thì bị bắt quả tang nên không xác định được số tiền trúng thưởng.

Các bị cáo khai nhận, phương thức, cách thức tổ chức đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề như sau:

Đi với hình thức đánh bao lô đài Miền Trung (đài Quảng Trị) thì người chơi chọn bất kỳ con số nào có 02 chữ số từ 00 đến 99 để cược tiền mua 02 chữ số cuối của tất cả các giải từ giải tám đến giải đặc biệt trong 18 lượt quay số kiến thiết của đài Quảng Trị (còn gọi là bao lô 02 chữ số), số tiền người chơi phải trả khi bao lô 02 chữ số là 13 lần số tiền đánh (ví dụ: bao lô 1.000đồng thì trả 13.000đồng), khi đánh trúng chung tiền thưởng theo tỷ lệ trúng thưởng là: 1 chung 70 đối với số tiền người chơi đánh đề (ví dụ: chơi bao lô 1.000 đồng trúng thì chung 70.000đồng) hoặc bao lô 03 chữ số từ số 000 đến 999 để cược tiền mua 03 chữ số cuối của tất cả các giải của 17 lượt quay của đài Quảng Trị (trừ giải tám), số tiền người chơi phải trả khi bao lô 03 chữ số là 13 lần số tiền đánh (ví dụ: bao lô 1.000 đồng thì trả 13.000 đồng), khi đánh trúng chung tiền thưởng theo tỷ lệ trúng thưởng là: 1 chung 400 đối với số tiền người chơi đánh đề (ví dụ: chơi bao lô 1.000 đồng trúng thì chung 400.000đồng).

Đi với hình thức đánh bao lô đài Miền Bắc thì người chơi chọn bất kỳ con số nào có 02 chữ số từ 00 đến 99 để cược tiền mua 02 chữ số cuối của tất cả các giải từ giải bảy (có 04 lượt quay số) đến giải đặc biệt trong 28 lượt quay số kiến thiết của đài Miền Bắc (còn gọi là bao lô 02 chữ số), số tiền người chơi phải trả khi bao lô 02 chữ số là 20 lần số tiền đánh (ví dụ: bao lô 1.000đồng thì trả 20.000đồng), khi đánh trúng chung tiền thưởng theo tỷ lệ trúng thưởng là: 1 chung 70 đối với số tiền người chơi đánh đề hoặc bao lô 03 chữ số từ số 000 đến 999 để cược tiền mua 03 chữ số cuối của tất cả các giải của 24 lượt quay (trừ 04 lượt quay số của giải bảy), số tiền người chơi phải trả khi bao lô 03 chữ số là 20 lần số tiền đánh, khi đánh trúng chung tiền thưởng theo tỷ lệ trúng thưởng là: 1 chung 400 đối với số tiền người chơi đánh đề. Các chữ số đánh trúng trong nhiều giải thì được nhân lên tương ứng của các giải trúng để chung.

Đi với hình thức chơi số đề đánh đầu hoặc đánh đuôi của đài Quảng Trị, thì người chơi chọn bất kỳ con số nào có 02 chữ số từ 00 đến 99 để cược tiền mua 02 chữ số trong 01 lần quay của giải tám (gọi là đánh số đầu) hoặc 02 chữ số cuối cùng của giải đặc biệt (gọi là đánh số đuôi), số tiền người chơi phải trả khi đánh nhân 01 lần của số tiền đánh đầu hoặc đuôi, được trừ tiền hoa hồng 20%. Khi người chơi đánh trúng chung tiền thưởng theo tỷ lệ trúng thưởng là: 1 chung 70.

Đi với hình thức chơi số đề đánh đầu hoặc đánh đuôi của đài Miền Bắc, thì người chơi chọn bất kỳ con số nào có 02 chữ số từ 00 đến 99 để cược tiền mua chọn tất cả 04 chữ số trong 04 lần quay giải bảy, số tiền người chơi phải trả khi đánh nhân (x) 04 lần của số tiền đánh và được trừ tiền hoa hồng 20% (gọi là đánh số đầu) hoặc người chơi chọn bất kỳ con số nào có 02 chữ số từ 00 đến 99 để cược tiền mua 02 chữ số cuối cùng của giải đặc biệt (gọi là đánh đuôi), số tiền người chơi phải trả khi đánh nhân (x) 01 lần của số tiền đánh, được trừ tiền hoa hồng 20%. Khi người chơi đánh trúng chung tiền thưởng theo tỷ lệ trúng thưởng là: 1 chung 70. Riêng đối với đánh số đuôi, nếu kết quả xổ số của 04 lần quay của giải bảy có nhiều lần quay trúng cùng một số thì nhân với số lần trúng tương ứng để chung thưởng.

Cách thức, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội là các bị cáo trực tiếp ghi vào giấy theo dõi thông qua người chơi trực tiếp gặp các bị cáo tại nhà ở của các bị cáo tại thôn Ph, xã B, huyện S hoặc có thể người chơi điện thoại đọc số lô, số đề và tiền cược hoặc nhắn tin số lô, số đề và tiền cược cho các bị cáo ghi chép vào giấy (gọi là tịch đề).

Các bị cáo khai nhận về cách thức ghi số lô, số đề vào tịch đề như sau: Đối với đánh số lô thì ghi 02 chữ số cần đánh nhân (x) với số tiền đánh (ví dụ: đánh số “10 nhân (x) 1.000đồng thì trong tịch đề ghi tắt là: “10 x 1”). Đối với đánh đầu, đuôi thì ghi 02 chữ số cần đánh ở giữa số tiền đầu, đuôi; số tiền ghi liền trước số đánh là đánh đầu, số tiền ghi liền sau của số đánh là đánh đuôi (ví dụ: đánh số “10” đầu 1.000đồng và đuôi 1.000đồng thì ghi “1 10 1”.

Đi với số tiền Cơ quan điều tra – Công an huyện Bình Sơn thu giữ được trên người các bị cáo ít hơn số tiền bán được là vì sau khi có kết quả xổ số kiến thiết đài Quảng Trị thì có một số người chơi trúng thưởng đã đến nhận tiền nên các bị cáo đã trả thưởng và một số người chơi đề chưa trả tiền chơi nên số tiền các bị cáo giữ trong người ít hơn.

[5] Xét lời khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, lời khai nhận tội của bị cáo Võ Thị L và bị cáo Phạm Tài T phù hợp với lời khai của người chơi Võ Văn H, người chứng kiến tại thời điểm bắt phạm tội quả tang là Võ Qu, Kết luận giám định số: 129/KLGĐ-PC09 ngày 24/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ngãi, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 03/01/2019, Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường và bản ảnh hiện trường lập ngày 03/01/2019, Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 03/01/2019, Biên bản kiểm tra điện thoại di động ngày 05/01/2019, Biên bản kiểm tra tịch đề ngày 03/01/2019 và ngày 10/01/2019 cũng như các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, thấy rằng: Hành vi tổ chức ghi số lô, số đề của bị cáo Võ Thị L và bị cáo Phạm Tài T khai nhận như trên đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự như Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[6] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Võ Thị L và bị cáo Phạm Tài T là người đủ năng lực nhận thức, điều khiển hành vi; động cơ mục đích phạm tội nhằm hưởng lợi ích từ việc tổ chức đánh bạc. Các bị cáo nhận thức được và hiểu rõ hành vi tổ chức bán số lô, số đề là vi phạm pháp luật. Việc ghi số lô, số đề là do bị cáo L và bị cáo T cùng ghi nhưng hầu hết đều do bị cáo L ghi, còn bị cáo T chỉ ghi giúp L khi có người chơi đến nhà mà L không có ở nhà hoặc bận công việc. Các tịch đề do Cơ quan điều tra thu giữ là do Võ Thị L trực tiếp ghi đề. Bị cáo T đều biết và có sự bàn bạc thống nhất cùng nhau ghi đề để thu lợi bất chính và cùng sử dụng tiền thu lợi bất chính vào mục đích chi tiêu trong gia đình. Hành vi phạm tội của các bị cáo xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của xã hội; Tổ chức đánh bạc và đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội, có thể gây ra những hệ lụy xấu đến chính gia đình các bị cáo và những người chơi nhưng vì ham lợi các bị cáo coi thường pháp luật, bất chấp những hệ lụy có thể xảy ra từ việc tổ chức đánh bạc. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với các bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Đi với bị cáo Võ Thị L là người thực hành tích cực, trực tiếp ghi đề; các tịch đề chủ yếu do bị cáo ghi và tích cực hơn bị cáo Phạm Tài T nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc hơn bị cáo Phạm Tài T.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Võ Thị L và Phạm Tài T đều thành khẩn khai báo nên cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Võ Thị L có ông nội Võ M được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến; cha Võ T (tên gọi khác Võ Văn T) và mẹ bà Phạm Thị H đều được Nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Hi đồng xét xử xét thấy các bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân tốt nên không cần thiết áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo mà cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ tác dụng giáo dục riêng đối với các bị cáo và nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[8] Đối với các lần bán số lô, số đề trước ngày 03/01/2019, Cơ quan điều tra không thu giữ được vật chứng, quá trình điều tra không làm rõ được số tiền bán số lô, số đề, không đủ cơ sở xử lý đối với các bị cáo nên không đặt ra giải quyết.

[9] Đối với Võ Văn H là người chơi đề, với tổng số tiền đánh đề các lần được xác định là: 1.020.000 đồng. Qua tra cứu tàng thư xác định H chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị kết án về tội “Tổ chức đánh bạc” hoặc tội “Đánh bạc” nên Cơ quan điều tra không khởi tố và đã đề nghị Công an xã B xử phạt vi phạm hành chính đối với H là có cơ sở, đúng pháp luật.

[10] Đối với Võ Qu, tại thời điểm bắt phạm tội quả tang đối với Võ Thị L và Phạm Tài T thì Qu chưa đánh số lô, số đề nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

[11] Đối với bà Trịnh Thị Tuyết H, mặc dù các bị cáo khai chuyển tịch đề cho bà H. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bà Trịnh Thị Tuyết H không thừa nhận về việc có nhận tịch đề từ các bị cáo nên không đủ cơ sở để xử lý.

[12] Đối với những người đánh số lô, số đề thì các bị cáo khai nhận không biết rõ họ và tên, địa chỉ ở đâu. Quá trình điều tra, chưa xác định được người chơi đề đánh số lô, số đề được ghi trong các tịch đề thu giữ được và Cơ quan điều tra chưa đủ cơ sở xử lý đối với những người chơi đề. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xử lý đối với những người chơi đề, khi nào có kết quả điều tra sẽ xử lý sau.

[13] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Xét thấy, các vật chứng do Cơ quan điều tra thu giữ theo Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 03/01/2019 là do các bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước và tịch thu tiêu hủy (trừ các tịch đề):

Tch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: Bốn (04) cây bút bi màu xanh, hiệu Thiên Long số TL 027; Một (01) cây bút bi màu đỏ, hiệu Thiên Long số TL 027; Một (01) cái kéo có kích thước dài 13 cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 6,5 cm, phần cán làm bằng nhựa màu vàng dài 6,5 cm; Ba mươi (30) tờ giấy, mỗi tờ có kích thước (8 x 6) cm (giấy trắng) và Bốn (04) tờ giấy, mỗi tờ có kích thước (8 x 6) cm, bên trong ghi số lô, số đề; vì các vật chứng này không còn giá trị sử dụng.

Tch thu sung ngân sách Nhà nước các vật chứng gồm: Một (01) máy tính cầm tay hiệu Casio màu xám số hiệu LC 403TV; Một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 3310 màu đen trắng; Một (01) điện thoại di động hiệu Nokia 130 màu cam; vì các vật chứng này còn giá trị sử dụng.

Tch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền sử dụng vào mục đích tổ chức đánh bạc của bị cáo L và bị cáo T là: 51.097.000 đồng (năm mươi mốt triệu, không trăm chín mươi bảy nghìn đồng), gồm: Tiền bán số lô, số đề 29.047.000đồng và tiền sử dụng vào mục đích chung trúng thưởng 22.050.000đồng, nhưng được khấu trừ số tiền Công an huyện Bình Sơn đã tạm giữ 8.585.000 đồng. Buộc bị cáo L và bị cáo T phải tiếp tục nộp số tiền còn lại là: 42.512.000 đồng (mỗi bị cáo phải nộp 21.256.000đồng).

Riêng đối với ba (03) tờ giấy A4 ghi số lô, số đề của đài miền Trung và miền Bắc được đánh thứ tự 01, 02, 03 (còn gọi là tịch đề, Võ Thị L có ký xác nhận vào các tài liệu này) vì có giá trị chứng cứ chứng minh tội phạm nên không tịch thu tiêu hủy và được lưu trong hồ sơ vụ án tại bút lục số: 115, 116 và 117).

Đi với các đồ vật do Cơ quan điều tra - Công an huyện Bình Sơn đã thu giữ của bà Trịnh Thị Tuyết H, Cơ quan điều tra xác định không liên quan trong vụ án và đã giao trả lại cho H nên không đặt ra xem xét.

[13] Xét ý kiến đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình SơnVề đề nghị áp dụng pháp luật, tội danh, hình phạt chính, mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, xử lý vật chứng và các vấn đề khác như trên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[14] Xét lời nói sau cùng của bị cáo: Lời nói sau cùng của các bị cáo là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[15] Xét ý kiến của những người tham gia tố tụng khác: Không có, nên không xét.

[16] Về án phí: Mỗi bị cáo Võ Thị L và Phạm Tài T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) theo Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c, khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58 và Điều 35 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Võ Thị L phạm tội: “Tổ chức đánh bạc.

Xử phạt tiền: Võ Thị L 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).

2. Căn cứ: Điểm c, khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 và Điều 35 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Phạm Tài T phạm tội: “Tổ chức đánh bạc.

Xử phạt tiền: Phạm Tài T 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: Năm (05) cây bút bi; Một (01) cái kéo;

Ba mươi tư (34) tờ giấy.

Tch thu sung ngân sách Nhà nước các vật chứng gồm: Một (01) máy tính cầm tay; Hai (02) điện thoại di động.

Các vật chứng nêu trên đều có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 01/10/2019 giữa Công an huyện Bình Sơn với Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Đi với ba (03) tờ giấy A4 ghi số lô, số đề của đài miền Trung và miền Bắc được đánh thứ tự 01, 02, 03 (gọi là tịch đề, Võ Thị L có ký xác nhận vào các tài liệu này) không tịch thu tiêu hủy và được lưu trong hồ sơ vụ án tại bút lục số: 115,116 và 117;

Tch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 51.097.000 đồng (năm mươi mốt triệu, không trăm chín mươi bảy nghìn đồng) do Võ Thị L và Phạm Tài T sử dụng vào mục đích tổ chức đánh bạc, được khấu trừ số tiền Cơ quan điều tra đã tạm giữ 8.585.000 đồng và chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn theo biên lai thu tiền số: AA/2010/04224 ngày 01/10/2019. Buộc Võ Thị L và Phạm Tài T phải tiếp tục nộp số tiền còn lại là: 42.512.000 đồng (mỗi bị cáo nộp 21.256.000đồng).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc Võ Thị L và Phạm Tài T, mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng Hai trăm nghìn đồng .

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Các bị cáo, người có quyền, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 26/10/2019). Riêng người có quyền, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 26/10/2019 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về