Bản án 44/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2019/HSST ngày 07 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Hà Phi Th (có tên gọi khác là C) sinh ngày 13 tháng 01 năm 1997 tại Thành phố H; Nơi cư trú:, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở trước khi bị bắt: 290, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Thợ sơn xe ô tô; trình độ học vấn lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Chí T và bà Lê Thị T; tiền sự, tiền án: Ngày 13/7/2017, bị Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 58); bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/10/2018; có mặt.

- Người bị hại: Ông Lê Trần N sinh năm 1997; Nơi cư trú: Phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đặng Ngọc Tr sinh năm 1998; Nơi cư trú: 2B đường Bãi Sậy, Phường 14, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

2. Bà Lê Thị T sinh năm 1972; Nơi cư trú: 47/5E/30 đường Tân Hóa, Phường 13, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 15 phút, ngày 12/10/2018, Ông Lê Trần N đang đứng trước Nhà, Phường X, quận Y, phía trước có dựng 01 cái vali, trên vali có để 01 túi xách màu nâu thì bất ngờ bị Hà Phi Th điều khiển xe mô tô biển số 59K2 – 229.18 chở Đặng Ngọc Tr đã thực hiện hành vi cướp giật túi xách màu nâu của ông Ân rồi tăng ga xe bỏ chạy. Cùng lúc này các chiến sĩ cảnh sát hình sự Công an quận Tân Bình đang trên đường tuần tra phát hiện, truy đuổi theo đến Công viên Tân Phước thì bắt được Th và Tr cùng vật chứng là túi xách màu nâu bên trong gồm có: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S và số tiền 7.000.000 đồng là tài sản Thuận vừa chiếm đoạt của ông Ân.

Kết quả xét nghiệm ma túy ngày 12/10/2018 của Trạm y tế Phường 9, quận Tân Bình ghi kết quả: Hà Phi Thdương tính với chất Methamphetamine.

Kết luận định giá tài sản số 284/HĐĐGTS-TTHS ngày 23/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình kết luận như sau:

* Điện thoại di động hiệu Iphone 6S – 64GB màu xám. Hàng chính hãng, đã qua sử dụng, tình trạng hoạt động tốt. Đơn giá 5.500.000 đồng/cái. Tài sản trên được định giá vào thời điểm tháng 10/2018.

Quá trình điều tra, Hà Phi Thvà Đặng Ngọc Tr đều khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 11/10/2018, Th đến tiệm Game ở Quận M nơi Tr đang làm nhân viên, Th rủ Tr đi ăn uống hết tiền nên Th nảy sinh ý định tìm tài sản sơ hở để cướp giật. Đến khoảng 03 giờ ngày 12/10/2018, do người nhà Tr báo cho Tr biết con của Tr bị bệnh nên Tr nhờ Th chở về nhà giùm, Th đồng ý chở Tr về, trên đường đi Th rủ Tr cùng Th kiếm tài sản để cướp giật nhưng Tr không đồng ý. Tuy nhiên do Th cho rằng nếu chở Tr là phụ nữ phía sau thì khó bị để ý nên Th vẫn chở Tr đi lòng vòng tìm tài sản sơ hở. Khi Th điều khiển xe lưu thông trên đường Nguyễn Thị Nhỏ thì Th nhìn thấy ông Lê Trần N đứng trước Nhà thờ Tân Phước đang sử dụng điện thoại, phía trước mặt ông Ân có để túi xách trên chiếc vali dựng trên lề đường nên Th đã quay xe lại áp sát dùng tay giật được túi xách của ông Ân rồi tăng ga bỏ chạy trốn được một đoạn thì bị các chiến sĩ cảnh sát hình sự quận Tân Bình bắt quả tang. Việc Th cướp giật túi xách của ông Ân thì chỉ một mình Th thực hiện, Tr không bàn bạc, không tham gia.

Kết quả xác minh chiếc xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu Honda Air Blade biển số 59K2-229.18, có số khung RLHJF6306FZ542256, số máy JF63E1923284 là phương tiện Th dùng vào việc phạm tội, xác định bà Lê Thị T (là mẹ ruột của Hà Phi Th) là chủ xe. Ngày 11/10/2018, Th mượn xe đi chơi sau đó dùng làm phương tiện thực hiện tội phạm bà T không biết, bà T yêu cầu được nhận lại xe. Ngày 30/01/2019, cơ quan điều tra Công an quận Tân Bình đã trả lại chiếc xe trên cho bà T.

Kết quả điều tra xác định, Hà Phi Th do cần có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên sử dụng xe mô tô làm phương tiện để thực hiện hành vi cướp giật tài sản là chiếc túi xách bên trong có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S có giá trị 5.500.000 đồng và số tiền 7.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản Th đã chiếm đoạt của ông Lê Trần N là 12.500.000 đồng. Chỉ một mình Th tự ý thực hiện tội phạm.

Đối với Đặng Ngọc Tr không bàn bạc và không tham gia nên không phải chịu trách nhiệm hình sự

Sau sự việc, Cơ quan điều tra Công an quận Tân đã trả cho người bị hại ông Lê Trần N số tiền 7.000.000 đồng và chiếc điện thoại hiệu Iphone 6S, ông A không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 04 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Hà Phi Thvề tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Hà Phi Th thừa nhận hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thấp trong quá trình điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Hà Phi Thdo cần có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng, đã thực hiện tội phạm bằng việc sử dụng xe mô tô làm phương tiện, có hành vi công khai giật lấy tài sản là túi xách bên trong có số tiền 7.000.000 đồng và 01 điện thoại hiệu Iphone 6S có trị giá 5.500.000 đồng của ông Lê Trần N rồi nhanh chóng tẩu thoát, hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội cướp giật tài sản. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội cướp giật tài sản. Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa gây thiệt hại về tài sản. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h khoản 1 Điều 52; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hà Phi Thtừ 04 (bốn) năm tù đến 05 (năm) năm tù; Về xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo thẩm quyền.

Bị cáo Th không tranh luận chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào khoảng 04 giờ, ngày 12/10/2018, bị cáo Hà Phi Th sau khi nhìn thấy ông Lê Trần N đang đứng trước, Phường X, quận Y, phía trước có mặt dựng 01 cái vali, trên vali có để chiếc túi xách màu nâu, do Th đã có ý định từ trước nên Th điều khiển xe mô tô biển số 59K2 – 229.18 phía sau chở Đặng Ngọc Tr quay lại áp sát vào người ông Ân rồi dùng tay thực hiện hành vi cướp giật túi xách màu nâu của ông Ân rồi tăng ga xe bỏ chạy. Như vậy, bị cáo Hà Phi Th đã có hành vi công khai giật lấy tài sản là chiếc túi xách bên trong có số tiền 7.000.000 đồng và 01 điện thoại di di động hiệu Iphone 6S, làm cho ông Ân bị bất ngờ, không kịp phản kháng, để chiếm đoạt tài sản của của ông A. Theo Kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì trị giá chiếc điện thoại di động là 5.500.000 (năm triệu năm trăm nghìn) đồng. Tổng trị giá tài sản Th đã chiếm đoạt của ông Ân là 12.500.000 (mười hai triệu năm trăm nghìn) đồng. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự.

[2] Đánh giá tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận biết việc cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị trừng trị nhưng chỉ vì cần có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, còn có thể xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của nạn nhân cũng như những người khác và còn làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo Th sử dụng xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện có hành vi cướp giật tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo đã vi phạm tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” nên bị xét xử tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự, như kết luật của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Nhân thân của bị cáo Th đã có 01 án tích:

Ngày 13/7/2017, bị Tòa án nhân dân M, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Theo các tài liệu điều tra xác minh và quy định của pháp luật thì bị cáo Th đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo chưa gây thiệt hại về tài sản, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đã tỏ ra ân hận với lỗi lầm. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân của bị cáo và việc phòng ngừa loại tội phạm này trong tình hình hiện nay nên Hội đồng xét xử thấy cần xử trên mức khởi điểm của khung hình phạt và cách ly một thời gian thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, đang ở cùng gia đình, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và tài sản: Tài sản của bị cáo Th là điện thoại di động hiệu Philip màu đỏ. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến tội phạm nên Hội đồng xét xử thấy cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Lê Trần N vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã trả lại cho ông chiếc túi xách bên trong có 7.000.000 đồng và chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 6S, ông A không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Những vấn đề nêu trên thể hiện, về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Tân Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Y, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Hà Phi Thphạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h khoản 1 Điều 52; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hà Phi Th05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2018.

[2] Về xử lý vật chứng và tài sản: Áp điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Trả lại cho bị cáo  chiếc điện thoại di động hiệu Philip màu đỏ, số imei 1: 864271037771369; số imei 2: 864271037821867, kèm pin và simcard nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tài sản trên theo lệnh nhập kho vật chứng số 39 ngày 29/01/2019 và phiếu nhập kho vật chứng số 43 ngày 31/01/2019 của Công an quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Luật phí, lệ phí 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hà Phi Thphải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

[4] Về quyền kháng cáo đối với bản án:

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 19/04/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về