Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 124/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2019/QĐ-HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Th, sinh năm 1981

Trú tại: Thôn Đ, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình

- Bị đơn: Anh Dương Văn C, sinh năm 1982

Trú tại: Thôn Ph, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Các đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13 tháng 5 năm 2019 và bản tự khai, nguyên đơn chị Đặng Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Dương Văn C kết hôn với nhau và có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình vào ngày 13/5/2002 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng anh chị sinh sống tại Thôn Ph, xã Th cùng gia đình anh C. Hai vợ chồng chỉ sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu Thẫn nguyên nhân do anh C chơi bời không quan tâm đến vợ con, những lúc vợ chồng xô sát cãi vã thì anh C còn đánh đập chị, có lần anh C đánh chị gẫy tay phải đi viện. Anh chị đã ly thân được khoảng 10 năm nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định mâu Thẫn giữa chị và anh C trầm trọng, không còn tình cảm vợ chồng nên chị xin ly hôn với C để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Chị xác định chị và anh C có 01 con chung là cháu Dương Duy Ph sinh ngày 06/3/2004, hiện cháu ở với chị. Nguyện vọng của chị xin tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

Ngày 14 tháng 5 năm 2019 Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý vụ án về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo đơn khởi kiện của chị Đặng Thị Th. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật quy định.

Đối với anh Dương Văn C mặc dù đã biết việc Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý giải quyết vụ án chị Th xin ly hôn với anh, nhưng anh C vẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Theo biên bản xác minh của Tòa án với Ủy ban nhân dân xã Th thì hiện nay anh C vẫn có hộ khẩu và đang sinh sống tại Thôn Ph, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Do anh C và gia đình anh có mâu Thẫn nên bố mẹ anh C từ chối không nhận bất cứ văn bản nào của Tòa án tống đạt cho anh C. Cũng theo xác minh tại Ủy ban xã Th thì mâu Thẫn giữa anh C và chị Th trầm trọng, do anh C không quan tâm vợ con và có biểu hiện không chung thủy với chị Th.

Ý kiến của cháu Dương Duy Ph được thể hiện tại bản tự khai ngày 20/6/2019: Cháu có nguyện vọng xin tiếp tục ở với chị Th, vì cháu cho rằng cháu ở với chị Th từ khi bố mẹ cháu ly thân, bố cháu là anh C không có trách nhiệm gì với cháu.

Tại đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với anh C, xin tiếp tục nuôi con chung.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

-Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn Ph, xã Th, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Toà án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết tranh chấp là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc thụ lý vụ án đúng quy định của pháp luật.

- Việc xác định quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện, Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đảm bảo về hình thức, nội dung.

- Thời hạn gửi hồ sơ, văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát: Đảm bảo quy định của pháp luật, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc giao nộp tài liệu chứng cứ: Thực hiện đúng các quy định tại Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các tài liệu là bản sao đều có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.

Đề nghị HĐXX: Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 điều 27 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Đề nghị tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Th. Xử ly hôn giữa chị Đặng Thị Th và anh Dương Văn C.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Dương Duy Ph, sinh ngày 06/3/2004, hiện đang ở với chị Th cho chị Th tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th.

3. Về án phí ly hôn: Chị Đặng Thị Th phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại Thôn Phú Thịnh, xã Kỳ Phú, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1].Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị Đặng Thị Th và anh Dương Văn C là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống được với nhau thời gian ngắn thì phát sinh mâu Thẫn. Nguyên nhân do anh C không quan tâm đến vợ con, hai bên thường xuyên cãi chửi và xô sát. Thực tế anh chị ly thân gần 10 năm nay, không ai quan tâm đến ai. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu Thẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th với anh C là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2].Về con chung: Nguyện vọng của chị Th xin tiếp tục nuôi cháu Ph sinh năm 2004 hiện đang ở với chị. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ trước tới nay cháu Ph ở với chị Th, anh C không hề có trách nhiệm gì với cháu Ph. Mặt khác anh C hay đi làm ăn xa, cháu Ph lại có nguyện vọng ở với chị Th, qua xem xét điều kiện của chị Th có đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định, lợi ích mọi mặt của cháu Ph nên giao cháu cho chị Th tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị Th không có yêu cầu vì vậy không đặt ra việc giải quyết.

[2.4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Th phải nộp theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 147, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức Th án phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Th. Xử ly hôn giữa chị Đặng Thị Th và anh Dương Văn C.

2. Về con chung: Giao cháu Dương Duy Ph sinh ngày 06/3/2004, hiện cháu đang ở với chị Th cho chị Th tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Th.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đặng Thị Th phải nộp là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp 300.000đ theo Biên lai Th tiền tạm ứng án phí số AA/2013/0000152 ngày 14/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Quyền kháng cáo: Chị Th và anh C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về