TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 44/2018/HS-ST NGÀY 01/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:
1/ Vũ Văn N, sinh năm 1997 tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: Ấp 5, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn S, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1965; Bị cáo là con thứ 4 trong gia đình có 04 anh chị em và chưa có vợ con.
Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 23/9/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chấp hành xong ngày 09/9/2017.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/11/2017 đến ngày 04/12/2017 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ, bị cáo bỏ trốn đến ngày 05/3/2018 bị bắt tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành.
2/ Võ Đại P, sinh năm 1997 tại Đồng Nai.
Nơi cư trú: Ấp 5, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Đình K (đã chết) và bà Lê Thị L, sinh năm 1967; Bị cáo là con thứ 2 trong gia đình có 03 anh chị em và chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 05/3/2018 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Long Thành.
- Bị hại: Trường Trung học cơ sở L.
Địa chỉ: Khu 13, xã L, huyện L1, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Nguyễn Thị Thành C, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Tổ 7, khu B, xã A, huyện L1, tỉnh Đồng Nai.
(Bị cáo Nghĩa, bị cáo Phong có mặt, chị Chung vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Văn N và Võ Đại P là bạn bè với nhau. Lúc 18 giờ ngày 23/11/2017, N và P bàn bạc cùng nhau đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, cả hai hẹn nhau lúc 0 giờ ngày 24/11/2017 đến khu vực gò mả sau nhà N tại ấp 5, xã A để đi trộm cắp. Khi đến P mang theo 01 cái mỏ lết bằng kim loại màu trắng dài khoảng 20cm đưa cho N làm công cụ phạm tội. Sau đó N và P đi bộ đến trường trung học cơ sở L thuộc khu 13, xã L, huyện L1 tìm tài sản để trộm cắp. N và P đi đến phòng Hiệu trưởng thì thấy trên bàn làm việc có máy vi tính nên N dùng mỏ lết mang theo bẻ gãy khoen khóa cửa đột nhập vào phòng, P đi đến tháo màn hình máy vi tính trên bàn làm việc, N lục tìm chìa khóa mở cửa tủ tiếp tục lấy thêm 02 máy in hiệu Canon Laser Shot LBP 2900, 02 màn hình vi tính hiệu HP V193 Moniter 18.5 inch, 02 bàn phím hiệu Logitech. Sau đó cả hai mang tài sản lấy trộm được cất giấu dưới mương gần nhà N. Đến 12 giờ cùng ngày, N nhờ B (không rõ lai lịch địa chỉ) chở tài sản mang về cất giấu tại nhà chị Vũ Thị N chị ruột của Nghĩa để tìm nơi tiêu thụ. Đến 18 giờ ngày 24/11/2017, anh Lưu cẩm B chồng chị N đến Công an xã T trình báo việc N mang một số thiết bị máy vi tính không rõ nguồn gốc, nghi là trộm cắp mà có đến gửi tại nhà anh. Ngày 25/11/2017, Cơ quan điều tra ra lệnh bắt khẩn cấp đối với N, tại Cơ quan điều tra Nghĩa khai số tài sản trên N được T (không rõ lai lịch, địa chỉ) nhờ cất giấu tìm nơi tiêu thụ. Trong quá trình điều tra và kết quả tra cứu dấu vân tay thu tại hiện trường đồng nhất với vân tay của N nên N đã khai nhận cùng P thực hiện hành vi trộm cắp như nêu trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản tố tụng hình sự số 112 ngày 30 tháng 11 năm 2017 kết luận:
- 02 máy in hiệu Canon Laser Shot LBP 2900, chưa qua sử dụng trị giá 3.600.000 đồng.
- 03 màn hình vi tính hiệu HP V193b Monitor 18,5 inch, trong đó có 02 màn hình chưa qua sử dụng, 01 màn hình đã qua sử dụng có giá 3.200.000 đồng.
- 02 bàn phím hiệu Logitech chưa qua sử dụng có giá 200.000 đồng.
Tổng cộng tài sản bị chiếm đoạt trị giá 7.000.000 đồng.
Vật chứng: Toàn bộ vật chứng đã thu hồi trả lại cho bị hại.
Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành các bị cáo Vũ Văn N và Võ Đại P đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng cùng các vật chứng, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập tại hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 19/4/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố các bị cáo Vũ Văn N và Võ Đại P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Vũ Văn N và Võ Đại P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Xét vai trò bị cáo N là người khởi xướng, rủ rê, thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, sau đó lại bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra nên cần xử lý nghiêm. Đối với bị cáo P, sau khi được rủ rê đã chuẩn bị công cụ phạm tội, tích cực thực hiện hành vi phạm tội nên mức án cũng phải nghiêm. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đề nghị xem xét áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo N mức án từ 10 tháng đến 12 tháng tù; xử phạt bị cáo P mức án từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.
Đối với người tên B có hành vi phụ giúp N chở tài sản trộm cắp mang đi cất giấu. Hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai bị hại và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, các bị cáo Vũ Văn N, Võ Đại P khai nhận: Lúc 0 giờ ngày 24/11/2017, tại khu 13, xã L, huyện L1, Vũ Văn N và Võ Đại P có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 máy in hiệu Canon Laser Shot LBP 2900, 03 màn hình vi tính hiệu HP V193b Monitor 18,5 inch, 02 bàn phím hiệu Logitech của trường Trung học cơ sở L. Tổng trị giá tài sản N và P chiếm đoạt là 7.000.000 đồng. Đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Vũ Văn N, Võ Đại P đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
[2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do có tư tưởng hưởng thụ, muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu xài nên các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp sự trừng trị của pháp luật.
Bị cáo N người khởi xướng, rủ rê, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bản thân bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong, bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản sau đó bị cáo lại bỏ trốn, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã một thời gian đến ngày 05/3/2018 bị cáo mới bị bắt nên mức án cần phải thật nghiêm.
Đối với bị cáo P sau khi được rủ rê đã chuẩn bị công cụ phạm tội và tích cực thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên mức án cũng phải nghiêm.
Do đó, cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên xem xét áp dụng điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
[3] Về trách nhiệm dân sự, vật chứng vụ án: Tài sản bị chiếm đoạt đã trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
[4] Về án phí: Các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Vấn đề khác: Đối với người tên B có hành vi giúp N chở tài sản trộm cắp mang đi cất giấu. Hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau.
[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp, đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 53 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn N, Võ Đại P phạm tội “Trộm cắp tài sản
Xử phạt:
- Bị cáo Vũ Văn N 09 (chín) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 05/3/2018 nhưng được trừ vào thời hạn tạm giữ từ ngày 25/11/2017 đến ngày 04/12/2017.
- Bị cáo Võ Đại P 07 (bảy) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 05/3/2018.
Về trách nhiệm dân sự: Không xét.
Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Vũ Văn Nghĩa, Võ Đại Phong mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 44/2018/HS-ST ngày 01/06/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 44/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/06/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về