Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 44/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 188/2018/TLST- HNGĐ, ngày 02 tháng 8 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2018/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh H; nơi ĐKHKTT: Số 19/409 đường M, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng; nơi ở: Số 8/37 khu A, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ; nơi ĐKHKTT: Số 19/409 đường M, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng; nơi ở: Số 8/37 khu A, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 20 tháng 7 năm 2018 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thanh H trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, Quận L, thành phố Hải Phòng vào ngày 05 tháng 01 năm 2004. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận được khoảng hai năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Đ thường xuyên đi uống rượu, đập phá đồ đạc trong gia đình, mắng chửi, đánh đập chị H, không quan tâm, trách nhiệm đến gia đình. Nhiều lần, anh Đ hành hung chị H khiến Công an phường T phải can thiệp, giải quyết nhưng anh Đ vẫn không thay đổi. Bản thân chị H cố gắng chịu đựng và tha thứ cho anh Đ nhiều lần, nhưng chỉ được một thời gian ngắn anh Đ lại tiếp tục có hành vi bạo lực vô cớ đối với chị H. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn, nếu tiếp tục chung sống sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần của chị H và sự phát triển của con nên chị H giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Đ.

Về nuôi con: Chị H và anh Đ có 01 con chung là Nguyễn Việt A, sinh ngày 06/10/2004. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về chia tài sản: Chị H và anh Đg tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, triệu tập anh Nguyễn Văn Đ nhiều lần đến Tòa án để trình bày quan điểm của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H, để hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng anh Đ đều vắng mặt và cũng không có văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị Huệ.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên có ý kiến như sau:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, cụ thể vắng mặt tại tất các các lần Tòa án triệu tập.

Quan điểm giải quyết vụ án: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân quận Hải An nhận định:

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ vắng mặt, không lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tuân theo các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên là hôn nhân hợp pháp. Về mâu thuẫn của vợ chồng chị H, anh Đ những người làm chứng cung cấp như lời trình bày của chị H là đúng. Anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không lý do và cũng không gửi văn bản thể hiện quan điểm của mình về yêu cầu khởi kiện của chị H. Cho thấy anh Đ không quan tâm đến tâm tư, tình cảm của chị H cũng như không mong muốn giải quyết mâu thuẫn để vợ chồng tiếp tục chung sống hòa thuận. Anh Đ nhiều lần có hành vi bạo lực gia đình, đánh chửi chị H làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần của chị H, làm cho hôn nhân lầm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[4] Về nuôi con: Chị H yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là Nguyễn Việt A, sinh ngày 06/10/2004. Anh Đ không có quan điểm về việc nuôi con. Xét chị H có công việc, thu nhập ổn định. Chị H làm công nhân tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn T từ năm 2012 đến nay, với mức thu nhập trung bình hàng tháng là 7.000.000đồng. Theo chị H và những người làm chứng cung cấp thì anh Đ làm nghề bả sơn tự do, thường xuyên vắng nhà. Như vậy chị H có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con tốt hơn anh Đ. Mặt khác, cháu Nguyễn Việt A có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy, căn cứ điều 58 và khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của chị H, giao con chung cho chị H trực tiếp nuôidưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, chị H yêu cầu để hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải  quyết, nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về chia tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Đ không có quan điểm, vì vậy Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội,

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thanh H và anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về nuôi con: Giao con chung là Nguyễn Việt A, sinh ngày 06/10/2004 cho chị Nguyễn Thị Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Tiền cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, ngươi không trưc tiêp nuôi con co quyên, nghĩa vụ thăm nom con ma không ai đươc can trơ.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số á0016463 ngày 02/8/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:44/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về