Bản án 44/2017/HNGĐ-ST ngày 26/07/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 44/2017/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 7 năm 2017, tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 683/2017/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 11 năm 2016, về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2017 và quyết định hoãn phiên tòa số: 34/2017/QĐST- HNGĐ giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị P, sinh năm 1987. Địa chỉ: đường D, phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh L, sinh năm 1987. Địa chỉ: đường M, tổ 7, phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/11/2016, tại bản khai và tại phiên tòa  nguyên đơn là chị P trình bày:

Về hôn nhân: Chị P và anh L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và và được Ủy ban nhân dân phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 88,ngày 11/11/2011. Sau khi kết hôn, chị P và anh L chung sống tại địa chỉ: đường M, tổ 7, phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Quá trình chung sống thì chị P và anh Lthường xuyên xảy ra mâu thuẫn dẫn tới gia đình không có tiếng nói chung. Anh L thường xuyên gây gổ đánh đập chị P. Để giữ hạnh phúc gia đình chị P đã cố gắng chịu đựng, níu kéo và khuyên nhủ anh L. Đến nay, anh L không thay đổi tính tình, không quan tâm đến gia đình. Chị Pnhận thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng hơn. Từ đầu năm 2014 đến nay vợ chồng sống ly thân, chị Phượng đã chuyển về địa chỉ đường D, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai là nhà của cha mẹ đẻ để sinh sống. Trong thời gian sống ly thân, vợ chồng không quan tâm gì tới nhau và anh Lcũng không có thể hiện mong muốn đoàn tụ vợ chồng. Vì vậy, chị P cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị P và anh L có 01 con chung là cháu L, sinh ngày 17/3/2012. Hiện cháu Lđang sống chung với chị P nên chị P yêu cầu được nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con: không yêu cầu anh Linh phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn là anh L đều vắng mặt và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Biên bản xác minh ngày 07 tháng 6 năm 2017, tại: Tổ 7, phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai xác định chị P và anh L sau khi kết hôn chung sống với nhau tại: đường M, tổ 7, phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai; tại thời điểm xác minh thì chị P không còn sinh sống tại địa chỉ này.

Ý kiến Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai tham gia phiên tòa: Chị P và anh L mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 58, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Áp dụng: khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;  khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P.

Về hôn nhân: Chị P được ly hôn với anh L.

Về con chung: Giao con chung L, sinh ngày 17/3/2012 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng; Chị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân thành phố Pleiku nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị P có đơn yêu cầu tòa án giải quyết xin được ly hôn với anh L, địa chỉ: đường M, tổ 7, phường L, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Căn cứ  khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Bị đơn là anh L đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Chị P và anh L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân phường L, thành phố P, tỉnh Gia Lai cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 88, ngày 11/11/2011. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của chị P và anh L là hợp pháp.

[3] Chị P cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do anh L thường xuyên gây gổ đánh đập chị P nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Từ đầu năm 2014 đến nay vợ chồng sống ly thân chị P đã chuyển về nhà của cha mẹ đẻ để sinh sống. Trong thời gian sống ly thân, vợ chồng không quan tâm gì tới nhau và anh L cũng không có thể hiện mong muốn đoàn tụ vợ chồng. Tòa án đã tiến hành xác minh tại nơi cư trú của vợ chồng thì thấy rằng chị P và anh L không còn chung sống với nhau. Quá trình giải quyết vụ án, anh L không có ý kiến gì đối với yêu cầu xin ly hôn của chị P, không có thiện chí để Tòa án hòa giải đoàn tụ mà để mặc. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị P và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P.

[4] Về con chung: Chị P và anh Lcó 01 con chung là cháu L, sinh ngày 17/3/2012. Hiện cháu L đang ở chung với chị P và anh L không có ý kiến gì thể hiện nguyện vọng nuôi con. Mặt khác, trong thời gian vợ chồng sống ly thân, cháu L được chị P chăm sóc, nuôi dưỡng đảm bảo quyền lợi của con. Căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị P.

[5] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị P không yêu cầu anh L phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị P và anh L không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Chị P là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 58, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Áp dụng: khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị P

Về hôn nhân: Chị P được ly hôn với anh L.

Về con chung: Giao con chung cháu L, sinh ngày 17/3/2012 cho chị P trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu L đã thành niên và có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Về cấp dưỡng: Không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự. Toà án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Không bên nào được cản trở quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định việc thay đổi mức cấp dưỡng.

Về án phí: Chị P phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 200.000 đồng  (hai trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0000026 ngày 07/11/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, như vậy chị P đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2017/HNGĐ-ST ngày 26/07/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:44/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về