Bản án 437/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 437/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Văn phòng khu phố Tân Phước, phường Tân Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 418/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 458/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Lê Đức H, sinh năm 1990 tại tỉnh Thanh Hóa; thư ờng trú: Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh T; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Lê Đức T (đã chết) và bà Lê Thị H, sinh năm 1959; bị cáo có 03 anh chị, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1987; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 107/2014/HS-ST ngày 23/4/2014, Tòa án nhân dân quận H, Thành phố H xử phạt 28 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong hình phạt và đóng án phí; bị bắt tạm giam ngày 09/6/2019; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Hữu H, sinh năm 1989 tại tỉnh Kiên Giang; thư ờng trú: Tổ 36, khu phố C, thị trấn K, huyện K, tỉnh K; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn K, sinh năm: 1954 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1956; bị cáo có 03 người anh, lớn nhất sinh năm: 1978, nhỏ nhất sinh năm: 1985; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 30/8/2007, Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh K ra quyết định xử phạt hành chính đưa vào cơ sở giáo dư ỡng 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 28/7/2010 Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh K ra quyết định xử phạt hành chính đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giam ngày 10/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Văn T, sinh năm 1996 tại tỉnh Kiên Giang; thư ờng trú: Ấp P, xã P, thành phố R, tỉnh K; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm không rõ và bà Nguyễn Thị T, sinh năm không rõ; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 03/5/2017, Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố H ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng, chấp hành xong ngày 17/8/2018; bị bắt tạm giam ngày 10/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

4. Quách Văn T, sinh năm 1988 tại tỉnh Thanh Hóa; thư ờng trú: Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Mư ờng; con ông Quách Văn C, sinh năm 1954 và bà Khang Thị N, sinh năm 1964; bị cáo có 02 anh em, lớn nhất sinh năm: 1987, nhỏ nhất sinh năm: 1990; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam ngày 10/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

1. Ông Lê Văn Y, sinh năm 1986. Vắng mặt.

2. Ông Trần Gia T, sinh năm 1963. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Đức H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T là người sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine.

Khoảng 10 giờ ngày 09/6/2019, Lê Đức H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T rủ nhau góp tiền mua ma túy đá về sử dụng. Trong đó: H góp 38.000 đồng, H góp 70.000 đồng, T góp 50.000 đồng, T không có tiền nên tới nói “Anh em cứ mua đi khi nào có tiền tôi gửi lại cho anh em”. Sau đó, H sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone 5, sim số 0942.858.136 gọi cho Liêm (chưa rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 150.000 đồng ma túy đá. Khoảng 30 phút sau, Liêm đến phòng trọ số 1, nhà số 17, đư ờng 17, khu phố N, phư ờng D, thị xã D, tỉnh B giao ma túy đá cho H rồi L lấy ma túy đá cùng H, H, T, T sử dụng tại phòng trọ. Số ma túy mới mua được, H cất trên gác phòng trọ. Sử dụng xong, L bỏ đi. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, H lấy gói nylon ma túy đá vừa mua được chia một phần ma túy cho H mang đi để sử dụng, sau đó H hàn kín lại gói nylon ma túy rồi cất trên gác phòng trọ. H dùng gói nylon hàn kín ma túy lại, cất trong vỏ bao thuốc lá hiệu Craven rồi để vỏ bao thuốc lá trên ba ga xe mô tô biển số 36H2-0308, số khung: Không có, số máy: C100ME-0053935. Đến khoảng 22 giờ 30 phút, H điều khiển xe mô tô biển số 36H2-0308 đi đến đư ờng số 7, khu phố N, phư ờng D, thị xã D, tỉnh B thì bị lực lư ợng tuần tra Công an phư ờng D phối hợp với Công an thị xã D kiểm tra, phát hiện trên ba ga xe mô tô có 01 gói thuốc lá hiệu Craven, bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá nên bị bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Đức H cùng vật chứng. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 10/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiến hành khám xét khẩn cấp nhà trọ của Lê Đức H tại phòng trọ số 1, nhà số 17, đư ờng 17, khu phố N, phư ờng D, thị xã D, tỉnh B, trong phòng có Hiệp, Tài, Tới, phát hiện và thu giữ trên gác phòng trọ có 01 hộp nhựa bên trong có 01 gói nylong hàn kín chứa ma túy đá, 01 bộ sử dụng ma túy đá, 02 cái kéo, 01 cân tiểu ly. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã ra Lệnh giữ người trong trư ờng hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng cất trong vỏ bao thuốc lá hiệu Craven; 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng đựng trong 01 hộp nhựa; 02 cái kéo; 01 cân tiểu ly; 01 xe mô tô biển số 36H2-0308, số khung: Không có, số máy: C100ME-0053935; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, sim số 0942.858.136.

Theo Kết luận giám định số 453/MT-PC09 ngày 18/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu chất màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín của Lê Đức H gửi giám định là ma túy, có khối lư ợng 0,1519 gam, loại Methamphetamine.

Theo Kết luận giám định số 454/MT-PC09 ngày 18/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương: Mẫu chất màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín của Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T gửi giám định là ma túy, có khối lư ợng 0,0524 gam, loại Methamphetamine.

Tổng trọng lư ợng ma túy là 0,2043 gam loại Methamphetamine.

Đối với tên L đã bán ma túy cho các bị cáo hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên đang tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Tại cáo trạng số 445/CT-VKS ngày 14 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Đức H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Đức H mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Nguyễn Hữu H mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Nguyễn Văn T mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Quách Văn T mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 0,2043 gam ma túy Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 gói thuốc lá hiệu Craven, 01 hộp nhựa kt 10cmx10cmx20cm, 02 cái kéo, 01 cân tiểu ly; sim số 0942.858.136.

Đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5; xe mô tô biển số 36H2-0308, số khung: Không có, số máy: C100ME-0053935. Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá trình điều tra, người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 09/6/2019, tại đoạn đư ờng số 7 thuộc khu phố N, phư ờng D, thị xã D, tỉnh B, Công an phư ờng D phối hợp với Công an thị xã D kiểm tra trên ba ga xe mô tô của Lê Đức H có 01 gói thuốc lá hiệu Craven, bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 10/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D tiến hành khám xét khẩn cấp nhà trọ số 1, nhà số 17, đư ờng 17, khu phố N, phư ờng D, thị xã D, tỉnh B của Lê Đức H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T thu giữ trên gác có 01 hộp nhựa bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá, 01 bộ sử dụng ma túy đá, 02 cái kéo, 01 cân tiểu ly. Các bị cáo xác định ma túy thu giữ trên xe của H và tại phòng trọ là ma túy của các bị cáo cùng nhau mua về để sử dụng. Hành vi của các bị cáo Lê Đức H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T tàng trữ 02 gói ma túy loại Methamphetamine, trọng lư ợng 0,2043 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 445/CT – VKS ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

[4] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm như ng là đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ. Các bị cáo đều là người thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo T, H, H có nhân thân xấu, là nghiện ma túy. Bị cáo T chưa có tiền án tiền sự, nghiện ma túy.

[8] Xử lý vật chứng:

- Xét ma túy loại Methamphetamine có khối lư ợng 0,1088 gam và 0,0273gam là vật cấm lưu thông, 01 gói thuốc lá hiệu Craven, 01 hộp nhựa kt 10cmx10cmx20cm, 02 cái kéo, 01 cân tiểu ly, sim số 0942.858.136 cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5; xe mô tô biển số 36H2-0308, số khung: Không có, số máy C100ME-0053935 các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không xác định được chủ sở hữu, cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo đủ để răn đe giáo dục và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[10] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[11] Đối với tên Liêm đã bán ma túy cho các bị cáo hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên đang tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Đức H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Đức H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/6/2019.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/6/2019.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/6/2019. Xử phạt bị cáo Quách Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/6/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu ma túy loại Methamphetamine, trọng lư ợng sau giám định là 0,1088 gam và 0,0273gam; 01 gói thuốc lá hiệu Craven, 01 hộp nhựa kt 10cmx10cmx20cm, 02 cái kéo, 01 cân tiểu ly; sim số 0942.858.136.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5; xe mô tô biển số 36H2-0308, số khung: Không, số máy: C100ME-0053935.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2019).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thư ờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Đức H, Nguyễn Hữu H, Nguyễn Văn T, Quách Văn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 437/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:437/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về