Bản án 436/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 436/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 376/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 566/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm 1988, nơi cư trú: Tổ 14, ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang. (có mặt)

Bị đơn: Ông Châu Quốc P (S), sinh năm 1992, nơi cư trú: Tổ 11, ấp Đ, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu kèm theo bà Nguyễn Thị Ngọc B trình bày: Hôn nhân giữa bà B và ông P là do tự tìm hiểu, yêu thương nhau được hai bên gia đình đồng ý đứng ra tổ chức lễ cưới vào năm 2008 nhưng ông bà chưa thực hiện việc đăng ký kết hôn. Sống chung đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, ông P thường xuyên đánh bà, gia đình hai bên đã khuyên ngăn nhưng không có kết quả, ông bà đã ly thân nhau khoảng 05 tháng nay, nhận thấy không thể chung sống nên bà xin ly hôn với ông P.

Về con chung: Có 04 con chung tên Châu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 06/10/2009; Châu Nguyễn Thanh N, sinh ngày 28/12/2011; Nguyễn Hùng C, sinh ngày 10/3/2014 và Nguyễn Huy C, sinh ngày 07/7/2017, các con hiện nay do ông P chăm sóc. Khi ly hôn bà đồng ý cho ông P tiếp tục nuôi dưỡng các con và xin không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Châu Quốc P (S) theo quy định nhưng ông P không có mặt theo các thông báo của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của bà B và ông P để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Chứng cứ mà Tòa án thu thập được:

Tại bên bản ghi nhận lời khai ngày 30/10/2020 ông Châu Quốc P (S) trình bày: Ông có nhận được thông báo thụ lý và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhưng do bận công việc không đến được. Nay, bà B nộp đơn yêu cầu ly hôn ông đồng ý vì khi sống chung ông bà thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm sống không thể hàn gắn được.

Về con chung: Ông thống nhất với lời trình bày của bà B, ông đồng ý tiếp tục nuôi 04 con chung và yêu cầu bà B phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản ghi nhận lời khai ngày 30/10/2020 của cháu Ngọc H và Thanh N có nguyện vọng được tiếp tục sống với ông P và không có yêu cầu gì với bà B.

Tại phiên tòa, bà B đồng ý cho ông P tiếp tục nuôi 04 con chung và đồng ý cấp dưỡng 04 con chung với số tiền mỗi con chung 750.000 đồng. Ông P bảo lưu ý kiến.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Ngọc B khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Châu Quốc P (S). Đồng thời, ông P cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Năm 2008, ông bà B, ông P được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới và đến nay không đăng ký kết hôn. Mặc dù hôn nhân của bà B, ông P được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, sau khi về chung sống bà B, ông P không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc trình bày của bà B, ông P phù hợp với giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã P vào ngày 21/9/2020 và biên bản xác minh ngày 29/10/2020 tại Ủy ban nhân dân xã Q nên hôn nhân giữa bà B, ông P không được xem là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử không công nhận bà B, ông P là vợ chồng.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống bà B và ông P có 04 con chung Châu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 06/10/2009; Châu Nguyễn Thanh N, sinh ngày 28/12/2011; Nguyễn Hùng C, sinh ngày 10/3/2014 và Nguyễn Huy C, sinh ngày 07/7/2017. Hiện 04 con chung do ông P nuôi dạy. Khi ly hôn, bà B đồng ý cho ông P được tiếp tục nuôi 04 con chung.

Xét thấy, từ khi ly thân đến nay, cháu Ngọc H, Thanh N, Hùng C và Huy C đều do ông P nuôi dạy. Ngoài ra, cháu H và cháu N đều có nguyện vọng tiếp tục sống với ông P. Tại phiên tòa, ông P yêu cầu tiếp tục nuôi 04 con chung. Do đó, để đảm bảo điều kiện sống của con chung, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận để cho ông P tiếp tục nuôi dạy 04 con chung là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ông P yêu cầu bà B phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định, bà B đồng ý cấp dưỡng 04 con chung với số tiền một đứa 750.000 đồng, 04 đứa con một tháng 3.000.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật. Thời gian bắt đầu cấp dưỡng là khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Hội đồng xét xử giải thích cho các đương sự biết: Ông P cùng các thành viên gia đình không được cản trở bà B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà B và ông P không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà B là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm và án phí cấp dưỡng. Ông P không phải chịu án phí nào khác.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 9, 51, 53, Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH 14, ngày 30/12/2016; Xử:

Về hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị Ngọc B và ông Châu Quốc P (S) là vợ chồng.

Về con chung: Ông Châu Quốc P (S) được tiếp tục nuôi dưỡng 04 con chung: 1/ Châu Nguyễn Ngọc H, sinh ngày: 06/10/2009. 2/ Châu Nguyễn Thanh N, sinh ngày: 28/12/2011. 3/ Nguyễn Hùng C, sinh ngày: 10/3/2014. 4/ Nguyễn Huy C, sinh ngày 07/7/2017.

Bà B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng 3.000.000 đồng/ tháng cho con chung. Thời gian cấp dưỡng khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ông P cùng các thành viên gia đình không được cản trở bà B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc B phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004757 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, bà B nộp bổ sung 300.000 đồng. Ông P không phải chịu án phí.

Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/11/2020), bà B, ông P được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 436/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:436/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về