Bản án 43/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2021/TLST- HS ngày 26 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Đặng Thành C- sinh ngày 03 tháng 7 năm 1984 tại huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; tên gọi khác: Không có; nơi cư trú: Khu Đ1, xã CĐ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn T1 sinh năm 1961 và bà Phùng Thị Ch sinh năm 1961; có vợ là Trần Thị Minh Th sinh năm 1991 (đã ly hôn) và 02 con (lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015).

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 79/2006/HS- ST, ngày 25/7/2006 bị Tòa án nhân dân huyện TB, tỉnh Đồng Nai xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phải nộp 50.000đ án phí hình sự. Đặng Thành C chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/10/2007, nộp xong án phí tháng 6/2008.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/01/2021 đến ngày 01/02/2021; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.

- Bị hại: Anh Bùi Văn T- sinh năm 1974 Trú tại: Khu N, xã CĐ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Đỗ Văn H- sinh năm 1985 Trú tại: Khu N, xã CĐ, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nợ nần nên khoảng 01 giờ sáng ngày 24/01/2021, Đặng Thành C sinh năm 1984 ở khu Đ1, xã CĐ, huyện Đ nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền trả nợ. Khoảng 01 giờ 20 phút sáng cùng ngày, C điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 19S1- 89xx của mình, đem theo 01 chiếc kìm cầm tay, chuôi bọc nhựa màu đỏ đen in chữ YCU- II và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ, bị hỏng màn hình, không gắn sim (Công dự định dùng kìm để phá khóa, dùng điện thoại để soi đèn khi cần thiết) đi đến khu vực chợ CĐ thuộc khu N, xã CĐ. Khi gần đến nơi, C giấu xe mô tô vào vườn bưởi của ông Nguyễn Đình Th1 sinh năm 1967 ở khu N1, xã CĐ rồi cầm theo kìm và điện thoại đi bộ vào chợ CĐ để tìm tài sản trộm cắp. Trên đường đi, C nhặt được 01 bao tải lưới đan bằng dây cước màu xanh ở bãi rác ven đường nên cầm theo, mục đích để đựng tài sản khi trộm cắp được. C đi quanh khu vực chợ nhưng không phát hiện tài sản gì sơ hở nên quay ra Quốc lộ 2 rồi đi sang bên kia đường, rẽ vào đường bê tông tiếp giáp nhà anh Bùi Văn T, sinh năm 1974 ở khu N, xã CĐ. C trèo qua tường rào xây để vào vườn nhà anh T thì thấy ở góc vườn có ánh đèn điện sáng, xung quanh được quây bạt, biết là khu vực chuồng chăn nuôi nên đi đến để trộm cắp vật nuôi. Tại đây, C thấy trong chuồng chăn nuôi có 02 đàn lợn con được nuôi nhốt trong hai ngăn riêng, đàn lợn ở ngăn bên trong lớn hơn ở ngăn bên ngoài. C bắt 03 con lợn con ở ngăn bên trong, cho vào bao tải lưới rồi trèo tường theo lối cũ đem ra ngoài, giấu ở bụi cỏ cách vị trí cất giấu xe máy khoảng 200m. Sau đó, C quay lại bắt tiếp 02 con lợn con cùng đàn, cho vào bao tải xác rắn màu vàng mà C nhặt được ở ven đường, đem đến chỗ giấu 03 con lợn con trước đó, cho vào cùng bao tải lưới rồi tiếp tục cầm bao tải xác rắn màu vàng quay lại chuồng lợn nhà anh T, bắt thêm 02 con lợn con cho vào bao tải và trèo tường ra ngoài. Khi đi qua ngôi nhà đang xây dựng của anh Đỗ Văn H, sinh năm 1985 ở khu N, C thấy có bình nước lọc ở cửa nên vào uống thì bị anh H phát hiện, truy hô mọi người đuổi bắt. C vứt lại bao tải đựng 02 con lợn con vừa trộm cắp được và bỏ chạy nhưng bị người dân và Công an xã CĐ đuổi bắt được. C thừa nhận hành vi của mình, chỉ vị trí cất giấu xe máy cùng 05 con lợn con đã trộm cắp trước đó. Công an xã CĐ đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C, thu giữ 07 con lợn con có tổng khối lượng 39,9kg mà C vừa trộm cắp được cùng 01 bao tải xác rắn màu vàng, 01 bao tải lưới màu xanh, 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 19S1- 89xx, 01 chiếc kìm cầm tay và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel không lắp sim. Sau khi xác định tổng khối lượng, Công an xã CĐ đã trả lại số lợn trên cho gia đình anh Bùi Văn T, đồng thời bàn giao hồ sơ cùng tài liệu, vật chứng có liên quan cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Cơ quan điều tra đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản huyện Đ định giá đối với 07 con lợn con mà Đặng Thành C trộm cắp của gia đình anh Bùi Văn T. Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 10, ngày 25/01/2021, Hội đồng định giá tài sản huyện Đ đã kết luận: 07 con lợn con bị trộm cắp có tổng trị giá là 10.500.000đ (Mười triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại bản Cáo trạng số: 15/CT- VKSĐH ngày 22/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố Đặng Thành C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đặng Thành C phạm tội: Trộm cắp tài sản.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Đặng Thành C từ 09 đến 12 tháng tù, trừ cho bị cáo thời gian đã bị tạm giữ (từ ngày 24/01/2021 đến ngày 01/02/2021). Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Xác nhận Công an xã CĐ đã trả lại cho anh Bùi Văn T 07 con lợn con, có tổng khối lượng 39,9kg.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bao tải xác rắn màu vàng, 01 bao tải lưới đan bằng dây cước màu xanh.

+ Trả lại cho Đặng Thành C: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 19S1- 89xx là phương tiện đi lại, 01 kìm cầm tay, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel không lắp sim.

- Về dân sự: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.0000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Thành C khai nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung cáo trạng truy tố, không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì. Bị hại là anh Bùi Văn T không tranh luận.

Kết thúc phần tranh luận, Đặng Thành C nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của mình là sai trái, xin Tòa giảm nhẹ để bị cáo sớm được trở về nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong vụ án này, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2]. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Đặng Thành C khai nhận: Vào hồi 03 giờ sáng ngày 24/01/2021, lợi dụng đêm tối, mọi người đang ngủ, Đặng Thành C đã đột nhập vào khu vực chuồng chăn nuôi của gia đình anh Bùi Văn T ở khu N, xã CĐ, huyện Đ, lén lút chiếm đoạt của gia đình anh Tiện 07 con lợn con có tổng khối lượng là 39,9kg, trị giá là 10.500.000đồng (Mười triệu năm trăm nghìn đồng).

[3]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của Đặng Thành C đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…………………………………..”.

[4]. Hành vi của Đặng Thành C đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng do đã từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích), nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Đặng Thành C không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, vì vậy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian. Khi lượng hình, có xem xét bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là “Thành khẩn khai báo” để giảm nhẹ cho bị cáo một phần. Mức phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với Đặng Thành C là có căn cứ, đúng pháp luật, cần chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Do Đặng Thành C không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao tải xác rắn màu vàng, 01 bao tải lưới màu xanh không còn giá trị sử dụng.

- Trả cho Đặng Thành C 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 19S1- 89xx, 01 chiếc kìm cầm tay và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel không lắp sim, do bị cáo chưa sử dụng các công cụ, phương tiện này vào việc phạm tội.

- Xác nhận Công an xã CĐ, huyện Đ đã trả cho anh Bùi Văn T 07 con lợn con, có tổng khối lượng là 39,9 kg.

[7].Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không phải giải quyết, do bị hại là anh Bùi Văn T đã nhận lại đủ tài sản, không yêu cầu Đặng Thành C bồi thường khoản tiền nào.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Thành C phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

* Về trách nhiệm hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Đặng Thành C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt Đặng Thành C 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, trừ cho bị cáo thời gian đã bị tạm giữ (từ ngày 24/01/2021 đến ngày 01/02/2021).

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Đặng Thành C.

* Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bao tải xác rắn màu vàng, một mặt in chữ URAE (loại bao tải 50 kg); 01 bao tải lưới đan bằng dây cước màu xanh.

- Trả lại cho Đặng Thành C: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave , màu sơn đỏ- đen, biển số 19S1- 89xx; 01 kìm cầm tay, chuôi bọc nhựa màu đỏ- đen in chữ YCU- II; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel vỏ ngoài màu đỏ, không gắn sim (bị hỏng màn hình).

(Các vật chứng nêu trên đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ quản lý).

- Xác nhận: Ngày 24/01/2021 Công an xã CĐ, huyện Đ đã trả cho anh Bùi Văn T 07 con lợn con, có tổng khối lượng là 39,9 kg.

* Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không phải giải quyết.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đặng Thành C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đoan Hùng - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về