Bản án 43/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/2021/TLST- HS ngày 27 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/ Phan Công T; giới tính: Nam; sinh năm 1991 tại Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú: 783/12/1 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 06, quận Tân Bình, TP.HCM; nghề nghiệp: sửa xe; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Quang H, sinh năm 1952 và bà: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1956; Hoàn cảnh gia đình: có vợ và 01con sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 19/8/2020 bị công an Phường 14, quận Tân Bình xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị tạm giữ ngày: 12/11/2020.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2/ Phạm Huỳnh Văn T1; giới tính: Nam; sinh năm 1978 tại TP. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 656/52/17 đường T, Phường M, Quận B, TP.HCM; nghề nghiệp: sửa xe; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn Đ và bà: Nguyễn Thị Diệu H; Hoàn cảnh gia đình: có vợ và 02 con ( lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2002); Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị tạm giữ ngày: 12/11/2020.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị L. sinh năm 1962, địa chỉ: 15 Phú Hòa, Phường 7, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ ngày 09/11/2020, Phan Công T gọi điện rủ Phạm Huỳnh Văn T1 đi uống cà phê. T1 điều khiển xe máy biển số 59H1-190.30 chở T đến uống cà phê tại trước Công viên Lê Thị Riêng, Quận 10. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, T1 chở T đi lòng vòng, khi đến đường Phú Hòa, Phường 7, quận Tân Bình, T rủ T1 lấy trộm 02 con tỳ hưu bằng đá của bà Nguyễn Thị L tại trước nhà số 15 Phú Hòa, phường 7, quận Tân Bình để bán lấy tiền tiêu xài, T1 đồng ý. T xuống xe đi bộ lại chỗ con tỳ hưu bên trái cổng, T1 lùi xe vào, T và T1 cùng khiêng con tỳ hưu đặt lên ba ga để chân phía trước xe. Cả hai chở tỳ hưu về cất giấu tại địa chỉ 648/28 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 11, Quận 3. Sau đó cả hai tiếp tục quay lại trộm con tỳ hưu còn lại. T1 chở T về nhà T, rồi một mình chở con tỳ hưu về nhà tại địa chỉ 648/28 Cách Mạng Tháng Tám. Vì không khiêng được con tỳ hưu xuống nên T1 vẫn để trên baga xe. Sáng hôm sau, T1 chở theo tỳ hưu đi làm công trình tại số 43 Phùng Thiện Chánh, Phường 12, Quận 10 rồi để lại đây. Qua truy xét, ngày 11/11/2020 Công an quận Tân Bình đã mời 02 bị cáo về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Phan Công T và Phạm Huỳnh Văn T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Qua kiểm tra, cả hai bị cáo đều dương tính với ma túy.

Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 271/HĐĐGTS- TTHS ngày 13/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình xác định: tỳ hưu bằng đá cẩm thạch màu vàng - trắng - cam có kích thước (60x20x40) cm, hàng đã qua sử dụng, đơn giá 4.000.000 đồng/con, số lượng 02 con là 8.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKS-TB ngày 26 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Phan Công T và Phạm Huỳnh Văn T1 về tội Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo Phan Công T và Phạm Huỳnh Văn T1 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Phan Công T, Phạm Huỳnh Văn T1, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

2 Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Phan Công T, Phạm Huỳnh Văn T1 đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 con tỳ hưu bằng đá trị giá 8.000.000 đồng của bị hại. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam, lười lao động nên hai bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Xét bị cáo Phan Công T là người rủ rê bị cáo T1 cùng thực hiện, về nhân thân bị cáo T có nhân thân xấu, có 01 tiền sự. Xét bị cáo T1 không có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội. Do đó mức hình phạt đối với bị cáo T cần nghiêm khắc hơn so với bị cáo T1. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: hai bị cáo 02 lần thực hiện hành vi trộm 02 con tỳ hưu của bị hại do đó phạm tội thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiệm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại do tài sản đã được thu hồi trả cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5 Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6 Về tang vật vụ án:

- Đối với 02 con tỳ hưu bằng đá đã được Cơ quan điều tra trả lại cho bị hại là phù hợp nên ghi nhận.

- Đối với 01 USB chứa dữ liệu hình ảnh các bị cáo trộm cắp tài sản, xét đây là tài liệu chứng cứ về hành vi phạm tội của bị cáo cần tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với xe gắn máy hiệu Symply biển số 51H1-190.30 thu giữ của bị cáo T1. T1 khai mua xe trên của một chủ quán cơm trên đường Hương Lộ 2, không nhớ vị trí quán cũng như lai lịch của người bán xe. Qua xác minh xe trên do anh Hình Quang Minh đứng tên chủ sở hữu, anh Minh khai đã bán xe trên cho em vợ là chị Nguyễn Thu Thảo vào năm 2013 nên không có yêu cầu gì. Chị Nguyễn Thu Thảo khai có mua xe máy trên của anh Minh và năm 2015 chị đã bán xe trên cho người thu mua ve chai không rõ lai lịch nên chị cũng không có yêu cầu gì. Xét thấy quá trình điều tra chưa làm việc được với chủ sở hữu, việc mua bán xe của các đương sự không thực hiện đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử quyết định cần tiếp tục giao Cơ quan Thi hành án dân sự quận Tân Bình thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian 01 năm để tìm chủ sở hữu nếu không làm việc được với chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Thu giữ của bị cáo T1 01 áo sơ mi dài tay màu cam, 01 nón bảo hiểm màu hồng, xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 03 điện thoại di động thu giữ của bị cáo T1, xét đây là tài sản của cá nhân bị cáo, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm g khoản 1 điều 52; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố các bị cáo Phan Công T, Phạm Huỳnh Văn T1 phạm tội Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Phan Công T 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2020.

Xử phạt bị cáo : Phạm Huỳnh Văn T1 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2020.

[2] Xử lý vật chứng của vụ án:

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo sơ mi dài tay màu cam, phía sau có chữ Công ty TNHH MTV dịch vụ công ích quận 3”; 01 nón bảo hiểm màu hồng, đã được niêm phong bởi chữ ký của CBĐT Nguyễn Công Long.

- Trả lại cho bị cáo Phạm Huỳnh Văn T1: 01 điện thoại di động Nokia bị bể mặt lưng phía sau, số imel 1: 358993092389653, số imel 2: 358993093389652; 01 điện thoại di động Mobistar màu trắng, bị nứt màn hình phía trước, số imel: 359650420235573; 01 điện thoại di động Wiho màu đen, số imel 1: 359570097492945, số imel 2: 359570097592942; đã được niêm phong bởi chữ ký của CBĐT Nguyễn Công Long.

- Đối với xe gắn máy hiệu Symply màu đỏ đen, biển số 51H1-190.30 không có dè xe phía trước, không có 02 đèn xi nhan phía sau, không có phần chụp đèn trước giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự quận Tân Bình thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sau 01 năm nếu không làm việc được với chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước. Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 67/BB/2021 ngày 03/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình).

[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về