Bản án 43/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2021/HSST ngày 16 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 25/3/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H (tên gọi khác Nguyễn Mạnh H ), sinh ngày 12/12/1990; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Tổ dân phố G, phường T, thành phố V , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị D; vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại Quyết định số 550/QĐ-CT ngày 03/10/2005 Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Yên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với Nguyễn Văn H , thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 01/6/2007; tại Bản án số 13/HSST ngày 25/12/2008 Toà án nhân dân huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang xử phạt Nguyễn Văn H 08 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 16 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999. H thi hành xong án phí ngày 01/4/2009; tại Bản án số 135/HSST ngày 29/12/2009 của Toà án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Văn H 4 năm 6 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 1999. H thi hành xong án phí và chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2014. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/02/2021 đến nay (có mặt).

Bị hại: Anh Mai Văn L , sinh năm 2000; địa chỉ: Tổ dân phố G, phường T, thành phố V , tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt) Người liên quan:

1. Anh Vũ Ngọc H , sinh năm 1984; trú tại: Số 40 H, phường T, thành phố V , tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

2. Anh Trần Nho H , sinh năm 1994; trú tại: Số 40 H, phường T, thành phố V , tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

3. Anh Nguyễn Kim T , sinh năm 1990; trú tại: Xuân Đán, xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

4. Anh Hoàng Văn H , sinh năm 1992; trú tại: Số 275 đường H, phường T, thành phố V , tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 18/8/2020, Nguyễn Văn H đã gọi điện thoại cho anh Mai Văn L , hỏi mượn xe máy của L để đi vay tiền trả nợ. Do có mối quan hệ quen biết từ trước nên anh L đồng ý rồi điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS: 88D1-299.29 đến đầu ngõ nhà H đón H , sau đó anh L chở H về đầu ngõ nhà mình. Tại đây anh L cho H mượn xe máy BKS: 88D1- 299.29, H hẹn khoảng 30 phút sẽ quay lại trả xe cho L . Sau khi mượn được xe, H điều khiển xe đi đến nhà bạn ở huyện Tam Đảo để vay tiền, trên đường đi H gọi điện nhưng bạn H nói không ở nhà nên H quay về. Lúc này, Vũ Ngọc S , sinh năm: 1991, ở Phường Tích S , thành phố Vĩnh Yên là bạn của H gọi điện cho H rủ đi chơi. H đồng ý và đến đón S . Khi đang ở nhà S , H bị bạn gọi điện thoại đòi nợ, do cần tiền gấp nên H đặt vấn đề nhờ S cầm cố chiếc xe máy đã mượn của anh L cho anh Vũ Ngọc H (là người quản lý khách sạn Hoàng Gia thuộc phường Tích S , thành phố Vĩnh Yên) để lấy tiền tiêu xài, nhưng S không đồng ý vì anh H là chỗ quen biết với S . Sau đó, H gọi điện cho Hoàng Văn H ở Phường Tích S , thành phố Vĩnh Yên để nhờ cầm cố xe. Hoàng Văn H đồng ý và hẹn gặp H tại ngã tư T50, phường Tích S , thành phố Vĩnh Yên. Khi gặp nhau, H có nhờ Hoàng Văn H đến gặp anh H để cầm cố chiếc xe mô tô trên. Hoàng Văn H điện thoại cho anh H đặt vấn đề cầm cố xe thì anh H đồng ý và bảo H mang xe đến khách sạn Hoàng Gia. Sau đó, Hoàng Văn H một mình điều khiển xe máy BKS: 88D1-299.29 đến khách sạn Hoàng Gia trên đường Nguyễn Tất Thành, phường Tích S , thành phố Vĩnh Yên. Tại đây Hoàng Văn H gặp Trần Nho H , là nhân viên của anh H. Hai bên thoả thuận cầm cố chiếc xe trên với giá 5.000.000,đ. Anh Hồng đưa cho Hoàng Văn H số tiền 4.600.000,đ và cắt lãi trước số tiền 400.000,đ. Sau khi nhận tiền, Hoàng Văn H gọi điện cho Nguyễn Văn H đến đón, H cùng S đi taxi đến cổng khách sạn Hoàng Gia để đón Hoàng Văn H . Trên xe Hoàng Văn H đưa toàn bộ số tiền đã cầm cố xe cho Nguyễn Văn H . Số tiền này H đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 20/8/2020, anh Mai Văn L đến Công an thành phố Vĩnh Yên trình báo sự việc. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H thừa nhận hành vi phạm tội như trên. Ngày 24/8/2020, Nguyễn Văn H đã tự nguyện giao nộp số tiền 4.600.000,đ để khắc phục hậu quả.

Ngày 20/8/2020, anh Trần Nho H giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 căn cước công dân số 026092001284 mang tên Hoàng Văn H và 01 xe máy BKS:

88D1-299.29 nhãn hiệu Honda Wave.

Ngày 24/8/2020, Cơ quan điều tra Yêu cầu định giá đối với xe máy nhãn hiệu Honda loại xe Wave BKS: 88D1-299.29. Tại Kết luận định giá tài sản số 144 ngày 28/8/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên kết luận: Trị giá xe máy 88D1-299.29 là 10.000.000,đ.

Về bồi thường dân sự: Anh Mai Văn L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì.

Đối với số tiền 4.600.000,đ, H có được từ việc cầm cố xe máy cho anh Huy. Nay anh H yêu cầu H phải trả lại số tiền này.

Cáo trạng số 51 CT-VKSNDTPVY-VP ngày 15/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Bị hại anh Mai Văn L vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên và không yêu cầu gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Vũ Ngọc H , anh Trần Nho H và anh Nguyễn Kim T vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên, đồng thời anh H yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 4.600.000,đ.

Tại phiên tòa anh Hoàng Văn H khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên và đề nghị nhận lại giấy chứng minh nhân dân.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Trả lại số tiền 4.600.000,đ cho anh Vũ Ngọc H và trả lại cho anh Hoàng Văn H 01 căn cước công dân số 026092001284 mang tên Hoàng Văn H . Xác nhận Cơ quan điều tra đã thu và trả lại cho anh Nguyễn Kim T xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS:88D1-299.29.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22 giờ ngày 18/8/2020, tại phường Tích S , thành phố Vĩnh Yên, Nguyễn Văn H mượn xe máy nhãn hiệu Honda loại xe Wave màu trắng mang BKS: 88D1-299.29 của anh Mai Văn L để đi giải quyết việc riêng. Sau đó, do cần tiền tiêu xài nên H đã nhờ anh Hoàng Văn H đem cầm cố xe máy trên cho anh Trần Nho H được 4.600.000đ. Số tiền trên Nguyễn Văn H đã tiêu xài cá nhân hết, không có khả năng trả lại tài sản cho anh L . Kết quả định giá xe máy BKS: 88D1-299.29 trị giá là 10.000.000,đ.

Hành vi lợi dụng sự tin tưởng của người khác giao tài sản rồi chiếm đoạt tài sản và không có khả năng trả lại tài sản nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 03 năm tù.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 03 năm tù nên theo quy định của Bộ luật Hình sự thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo đã bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” và “Cướp giật tài sản”, 01 lần đưa vào trường giáo dưỡng, mặc dù không bị tính là tiền án tiền sự, nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, chỉ vì không có tiền tiêu xài bị cáo đã lợi dụng sự tin sự tưởng của anh L đã giao tài sản cho H sử dụng, sau đó H mang tài sản đi cầm cố lấy tiền tiều xài cá nhân và không có khả năng trả lại tài sản cho anh L . Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “Tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả” để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định các bị cáo không có nghề nghiệp, tài sản, thu nhập gì, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[4] Về hành vi liên quan:

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, BKS: 88D1- 299.29, số máy: HC12E7331680, số khung: 125XFY331607 và chứng nhận đăng ký xe máy trên mang tên chủ sở hữu Nguyễn Kim T , ở xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Quá trình điều tra xác định: Ngày 14/08/2020 anh Tới mang xe trên đến cửa hiệu cầm đồ Nhất Tín số 49 Ngô Quyền, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên để cầm cố cho Mai Văn L là nhân viên cửa hiệu với số tiền 12.000.000,đ. Số tiền này L lấy từ tiền của cửa hiệu. Anh Tới đồng ý cho cửa hiệu sử dụng chiếc xe máy trên trong thời gian cầm cố. Mai Văn L là nhân viên cửa hiệu đã mang đi sử dụng và cho Nguyễn Văn H mượn. Anh Nguyễn Văn Đăng là đại diện của hiệu cầm đồ Nhất Tín khai chiếc xe trên là do Nguyễn Kim T mang đến cầm cố và không có bất kỳ yêu cầu, đề nghị gì về dân sự do hai bên đã tự giải quyết.

Đối với Hoàng Văn H là người trực tiếp mang xe máy đi cầm cố giúp Nguyễn Văn H . Quá trình điều tra xác định, Hoàng Văn H không biết xe máy do Nguyễn Văn H phạm tội mà có. Bản thân Hoàng Văn H không được hưởng lợi gì từ việc cầm cố và đối với Vũ Ngọc S là người đi cùng Nguyễn Văn H sau khi H đã mượn được xe máy từ anh Mai Văn L , do S không biết nguồn gốc chiếc xe máy, không biết Nguyễn Văn H thực hiện hành vi phạm tội mà có cũng như không tham gia cầm cố xe máy giúp cho Nguyễn Văn H . Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Hoàng Văn H và Vũ Ngọc S là phù hợp.

Đối với Vũ Ngọc H và Đặng Nho Hồng là nhân viên của Huy, nhận cầm cố xe từ Hoàng Văn H . Huy và Hồng không biết nguồn gốc chiếc xe, không biết Nguyễn Văn H thực hiện hành vi phạm tội mà có. Hành vi của Vũ Ngọc H và Đặng Nho Hồng không cấu thành tội phạm. Tuy nhiên Vũ Ngọc H và Trần Nho H đã có hành vi nhận cầm cố tài sản là xe máy không có giấy tờ đăng ký xe vi phạm điểm d, khoản 2, điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/11/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự. Công an thành phố Vĩnh Yên đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính theo quy định. [5] Về bồi thường dân sự và xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy BKS: 88D1-299.29 là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Kim T , nên ngày 01/02/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại xe máy cho anh Tới. Sau khi nhận lại tài sản, anh Tới không yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Đối với số tiền 4.600.000đ do H tự nguyện giao nộp để khắc phục hậu quả, xác định đây là tài sản hợp pháp của anh H nên cần trả lại cho anh Huy.

Đối với căn cước công dân số 026092001284 mang tên Hoàng Văn H , sinh năm 1992, HKTT: Số 257, đường H Vương, Tích S , Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc do Trần Nho H giao nộp là giấy tờ hợp pháp của anh Hoàng Văn H nên cần trả lại cho anh H .

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14/02/2021.

Áp dụng khoản 2 điều 47, khoản 1 điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; của Bộ luật Dân sự năm 2015: Trả lại số tiền 4.600.000,đ (Bốn triệu sáu trăm ngàn đồng) cho anh Vũ Ngọc H và trả lại cho anh Hoàng Văn H 01 căn cước công dân số 026092001284 mang tên Hoàng Văn H (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2021) Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 43/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về