Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 30 tháng 8 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 192/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 597/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị H, sinh năm 197X; ĐKHKTT: Thôn T, xã T, huyện K, Hải Phòng; chỗ ở: Đường H, phường H1, quận L, Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Ngô Trí D, sinh năm 197Y; ĐKHKTT: Thôn T, xã T, huyện K, Hải Phòng; chỗ ở: Đường H, phường H1, quận L, Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/5/2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Ngô Thị H trình bày: Chị và anh Ngô Trí D xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thụy Phương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 08 tháng 9 năm 1998, đến nay có hai con chung tên là Ngô Đức T, sinh ngày 24/8/1998 và Ngô Duy K, sinh ngày 18/01/2005. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên bất đồng về quan điểm sống, lối sống; hơn nữa do anh D cờ bạc, lô đề không quan tâm tới gia đình, vợ con. Chị H cũng đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh D không từ bỏ được. Từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát, tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, lạnh nhạt. Hai bên đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2020 cho đến nay không còn quan tâm tới nhau về mọi mặt. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Ngô Đức T, sinh ngày 24/8/1998 và Ngô Duy K, sinh ngày 18/01/2005. Đến nay cháu Ngô Đức T đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Ngô Duy K đến khi thành niên, việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị H nhận nộp cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Quá trình tòa án hòa giải và tại phiên tòa anh D đều vắng mặt nhưng tại đơn trình bày ngày 18/6/2021 anh D gửi tòa án, trình bày: Anh nhất trí với trình bày của chị H về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, con chung và tài sản chung. Đến nay anh thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn vì vậy chị H xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Đến nay cháu Ngô Đức T đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết còn cháu Ngô Duy K ở với ai tự cháu quyết định anh không có ý kiến gì. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do công việc cá nhân nên anh không thể đến Tòa án làm việc và tham dự phiên tòa, vì vậy anh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chấp hành chưa đầy đủ theo quy định của Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị H và anh D xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thụy Phương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 08 tháng 9 năm 1998 và có 02 con chung. Quá trình chung sống đến năm 2005 phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống, lối sống, tính cách luôn bất đồng và anh D cờ bạc, lô đề không quan tâm tới gia đình, vợ con. Vợ chồng sống ly thân nhau từ đầu tháng 11năm 2020 đến nay. Xét thấy cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị H đã không còn tình cảm với anh D và có đơn xin ly hôn vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh D.

Về con chung: Đến nay cháu Ngô Đức T, sinh ngày 24/8/1998 đã thành niên nên không xem xét. Đề nghị giao cháu Ngô Duy K, sinh ngày 18/01/2005 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận;

Về tài sản chung: Vợ chồng chị H và anh D không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Chị Ngô Thị H khởi kiện xin ly hôn anh Ngô Trí D làm phát sinh quan hệ tranh chấp về "ly hôn, nuôi con khi ly hôn". Bị đơn có địa chỉ cư trú tại địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Quá trình giải quyết vụ án, anh D đã nhận được các văn bản tố tụng của tòa án và quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng a không đến tòa án làm việc và có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn anh Ngô Trí D - Về nội dung vụ án:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Chị Ngô Thị H và anh Ngô Trí D kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thụy Phương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 08 tháng 9 năm 1998 nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống, lối sống, tính cách không hòa hợp, thường xuyên xảy ra cự cãi, va chạm; hơn nữa anh D còn mắc vào tệ nạn xã hôi, không quan tâm tới gia đình, vợ con. Mặc dù gia đình nội ngoại, người thân cùng Tòa án đã khuyên giải để vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc nhưng không có kết quả; vợ chồng đã tự sống ly thân từ tháng 11 năm 2020 đến nay. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ xác minh về thực trạng hôn nhân giữa chị H và anh D tại nơi cư trú và gia đình cho thấy: Vợ chồng chị H và anh D sống không hòa thuận, thường xuyên xảy ra va chạm, chị H không còn tình cảm gì với anh D nữa. Do vậy, việc chị H đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh D là có cơ sở nên được chấp nhận.

[3] Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh D đã thực sự trầm trọng; cuộc sống chung không thể kéo dài; mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; xử cho chị Ngô Thị H được ly hôn anh Ngô Trí D.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị Ngô Thị H và anh Ngô Trí D có 02 con chung tên là Ngô Đức T, sinh ngày 24/8/1998 và Ngô Duy K, sinh ngày 18/01/2005. Đến nay cháu Ngô Đức T đã thành niên. Khi ly hôn, chị H xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K. Cháu K cũng có đơn trình bày xin được ở với mẹ. Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyện vọng của chị H và cháu K là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Do vậy khi ly hôn, cần giao con Ngô Duy K cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Ngô Thị H được ly hôn với anh Ngô Trí D.

2. Về con chung: Khi ly hôn, giao con chung của chị Ngô Thị H và anh Ngô Trí D tên là Ngô Duy K, sinh ngày 18/01/2005 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ngô Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị H đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo Biên lai thu tiền số 0014756 ngày 08 tháng 6 năm 2021.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị Ngô Thị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Ngô Trí D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết

5. Về quyền thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về