Bản án 43/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2020/HS-ST ngày 16 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

1/ Nguyễn Văn P, sinh năm 1997. Nơi cư trú: ấp Sơn Hòa, xã Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Hữu, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Thanh Tuyền, sinh năm 1970; Anh chị em ruột có 2 người, bị cáo là người thứ nhất; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 28 tháng 7 năm 2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Bùi Văn H, sinh năm 1999. Nơi cư trú: ấp Phú Hùng, xã Tây Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Lợi, sinh năm 1967 và bà Dương Thị Mỹ Lệ, sinh năm 1984; Anh chị em ruột có 2 người, bị cáo là người thứ nhất; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 28 tháng 7 năm 2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Thành N, sinh năm 1986. Nơi cư trú: ấp Phú An, xã An Bình, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang (vắng mặt).

2/ Ông Lê Văn M, sinh năm 1966. Nơi cư trú: ấp Phú Thuận, xã Tây Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ ngày 28/5/2020, Công an thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn tuần tra trên địa bàn ấp Tân Hiệp A, thị trấn Óc Eo phát hiện bị cáo Bùi Văn H điều khiển xe mô tô biển số 67N1-9393 chở bị cáo Nguyễn Văn P có biểu hiện nghi vấn nên mời cả hai về trụ sở làm việc. Tại đây, bị cáo P và H khai nhận khoảng 16 giờ ngày 28/5/2020, Phan Linh Vũ (bạn của P) gọi điện thoại nhờ P mua một góc tám ma túy đá, rồi Vũ cho ma túy sử dụng thì P đồng ý. Khi này, P điện thoại cho H đến chở P về nhà H dùng điện thoại liên lạc với Mẫn (không rõ họ, địa chỉ cụ thể) hỏi mua 600.000 đồng ma túy. Sau đó, P nói với Vũ là một góc tám ma túy giá 700.000 đồng để lấy số tiền chênh lệch 100.000 đồng tiêu xài cá nhân nhưng không nói cho H biết. Tiếp đó, H điều khiển xe chở P đến gặp Vũ lấy 700.000 đồng, rồi đưa xe mô tô biển số 67N1-9393 để P một mình đến xã Tây Phú, huyện Thoại Sơn gặp Mẫn nhận 01 bọc ma túy đựng trong bọc nylon trong suốt hàn kín, cất vào túi quần bên phải đang mặc, rồi quay xe lại để H điều khiển chở P đến nhà Vũ giao ma túy cho Vũ, nhưng khi đến khu vực ấp Tân Hiệp A thấy lực lượng Công an đang tuần tra, sợ bị phát hiện nên P ném bỏ bọc ma túy xuống đóng cây khô ven đường. Bị lực lượng mời về trụ sở làm việc thì P, H khai nhận việc mua bán trái phép chất ma túy và chỉ nơi ném bỏ ma túy để lực lượng công an lập biên bản, thu giữ vật chứng.

Vật chứng thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Oppo, một điện thoại di động hiệu Hphone, xe mô tô biển số 67N1-9393, 10.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám số 133/KLGT-PC09 (MT) ngày 16/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận: Mẫu M gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2741g (không phẩy hai bảy bốn một gam).

Theo PH xét nghiệm ngày 29/5/2020 của Trung tâm y tế huyện Thoại Sơn, kết luận: Nguyễn Văn P, Bùi Văn H dương tính với Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số: 44/CT-VKSTS, ngày 13/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các vật chứng thu giữ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên tòa phát biểu lời luận tội đối với các bị cáo và giữ nguyên truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn H mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Về phần vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người làm chứng không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sau khi vụ án xảy ra, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H thừa nhận toàn bộ hình vi phạm tội của mình, bị cáo khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 28/5/2020, Phan Linh Vũ (bạn của P) gọi điện thoại nhờ P mua một góc tám ma túy đá, rồi Vũ cho ma túy sử dụng thì P đồng ý. Khi này, P điện thoại cho H đến chở P về nhà H dùng điện thoại liên lạc với Mẫn (không rõ họ, địa chỉ cụ thể) hỏi mua 600.000 đồng ma túy. Sau đó, P nói với Vũ là một góc tám ma túy giá 700.000 đồng để lấy số tiền chênh lệch 100.000 đồng tiêu xài cá nhân nhưng không nói cho H biết. Tiếp đó, H điều khiển xe chở P đến gặp Vũ lấy 700.000 đồng, rồi đưa xe mô tô biển số 67N1-9393 để P một mình đến xã Tây Phú, huyện Thoại Sơn gặp Mẫn nhận 01 bọc ma túy đựng trong bọc nylon trong suốt hàn kín, cất vào túi quần bên phải đang mặc, rồi quay xe lại để H điều khiển chở P đến nhà Vũ giao ma túy cho Vũ, nhưng khi đến khu vực ấp Tân Hiệp A thấy Lực lượng Công an đang tuần tra, sợ bị phát hiện nên P ném bỏ bọc ma túy xuống đóng cây khô ven đường. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với kết luận giám định khối lượng chất ma túy. Ngoài ra nó còn phù hợp với các chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Chỉ vì nghiện ma túy mà các bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H đã thực hiện hành vi mua bán ma túy, các bị cáo ý thức được rằng, mua bán trái phép ma túy là hành vi phạm tội nhưng các bị các vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, chẳng những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, tạo dư luận xấu trong nhân dân và có thể là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được rằng chất ma túy là rất độc hại, Nhà nước cấm mua bán nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, khi lượng hình cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ giáo dục, cải tạo, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Trong vụ án này mặc dù có đồng phạm nhưng thuộc trường hợp giản đơn. Qua diễn biến của vụ án cho thấy bị cáo P và H có vai trò như nhau; P là người đề xướng bị cáo H mua ma túy của Mẫn về giao cho Vũ và hứa hẹn với H cho ma túy sử dụng và cùng với bị cáo H thực hiện việc mua bán, còn bị cáo H tham gia rất tích cực, là người mượn xe và chở P đến nhà Vũ để P giao dịch với Vũ và sau khi mua bán xong bị cáo sử dụng tiền lời từ việc mua bán ma túy với Vũ. Do đó tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của 02 bị cáo đều như nhau và phải chịu trách nhiệm hình sự ngang nhau.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thật thà khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, các bị cáo xuất thân từ thành phần lao động, học vấn thấp, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ được vật chứng gồm:

- 01 phong bì thư màu trắng, được niêm phong dán kín bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ 133/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 16/6/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáp lai của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và các chữ ký của Nguyễn Thị Thu Hà, Huỳnh Văn Trường.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng.

- 01 điện thoại di động hiệu Hphone (đã qua sử dụng).

Cả 02 điện thoại trên để trong 01 phong bì thư màu trắng, được niêm phong dán kín bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ 101/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 05/7/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang và các chữ ký giáp lai ghi họ, tên Giáp Thanh Tiến, Vũ Tuấn Trung.

- 01 một xe mô tô BKS: 67N1-9393, màu xanh bạc, hiệu HANON, số máy: 402087 (đã qua sử dụng).

- Tiền Việt Nam 10.000 đồng.

Các vật chứng này cần phân hóa ra để xử lý như sau:

- Đối với 01 phong bì thư màu trắng, được niêm phong dán kín bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ 133/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 16/6/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáo lai của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và các chữ ký của Nguyễn Thị Thu Hà, Huỳnh Văn Trường là vật chứng liên quan trực tiếp đến vụ án nên cần tuyên bố tịch thu tiêu hủy.

Đối với:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng.

- 01 điện thoại di động hiệu Hphone (đã qua sử dụng).

Là của 02 bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy và số tiền 10.000 đồng là tiền thu lợi bất chính nên cần tuyên bố tịch thu phát mãi sung vào ngân sách Nhà nước hai điện thoại này cùng với số tiền 10.000 đồng.

Đối với 01 một xe mô tô BKS: 67N1-9393, màu xanh bạc, hiệu HANON, số máy: 402087 (đã qua sử dụng) của ông Nguyễn Thành N, bị cáo H mượn sử dụng và thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhưng ông N không hay biết nên cần tuyên trả lại xe này cho ông N.

[7] Đối với người tên Mẫn không rõ nhân thân và Phan Linh Vũ hiện không có ở địa phương; đồng thời H không nhận dạng được Vũ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thoại Sơn sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 28 tháng 7 năm 2020.

- Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 28 tháng 7 năm 2020.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư màu trắng, được niêm phong dán kín bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ 133/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 16/6/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáp lai của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và các chữ ký của Nguyễn Thị Thu Hà, Huỳnh Văn Trường.

Tuyên bố tịch thu phát mãi sung vào ngân sách Nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng.

- 01 điện thoại di động hiệu Hphone (đã qua sử dụng).

(Cả 02 điện thoại này để trong 01 phong bì thư màu trắng, được niêm phong dán kín bên ngoài có ghi dòng chữ “vụ 101/KLGĐ-PC09 (KTSĐT) ngày 05/7/2020” có đóng dấu tròn màu đỏ giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang và các chữ ký giáp lai ghi họ, tên Giáp Thanh Tiến, Vũ Tuấn Trung).

- Tịch thu số tiền 10.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

Trả lại cho Ông Nguyễn Thành N 01 một xe mô tô BKS: 67N1-9393, màu xanh bạc, hiệu HANON, số máy: 402087 (đã qua sử dụng).

(Các vật chứng này hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số 44/QĐ-VKSTS ngày 13 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Buộc các bị cáo Nguyễn Văn P, Bùi Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu xét xử P thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã, thị trấn nơi đương sự cư trú để yêu cầu xét xử P thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về