Bản án 43/2020/HSST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 43/2020/HSST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Trịnh Văn M - sinh ngày 05 tháng 4 năm 1990, tại tỉnh Tiền Giang; tên gọi khác là MH; Nơi cư trú: ấp LBA, xã LH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trịnh Văn M1, sinh năm 1965 (chết) và bà Lê Thị Bé T, sinh năm 1965; Anh chị em ruột có 03 người, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1992; Bị cáo chưa có vợ, con;

- Tiền án: không;

- Tiền sự: Ngày 06/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong hạn 24 tháng. Đã chấp hành xong ngày 28/01/2019.

* Nhân thân: Vào ngày 19/12/2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong ngày 29/4/2014.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/02/2020 đến ngày 02/03/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang;

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Lê Thị Bé T, sinh năm 1965 (có mặt);

Địa chỉ: ấp LBA, xã LH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

+ Anh Ngô C, sinh 1973 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số 930/1A đường TS, Phường 13, Quận 3, TP.HCM.

+ Anh Trần Minh K, sinh năm 1993 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp BX xã TP, huyện CT, tỉnh Tiền Giang

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Duy H, sinh năm 1985 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ sáng ngày 28/2/2020 Trịnh Văn M điều khiển xe mô tô biển số 59F1-437.10 đến khu vực Phường 6 thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang gặp một thanh niên không rõ họ tên, năm sinh, địa chỉ cụ thể mua ma túy loại Heroin với số tiền là 450.000 đồng mục đích để sử dụng cá nhân. Người thanh niên đưa cho M 03 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa ma túy. M lấy 03 ống đoạn nhựa trên để vào vỏ bao thuốc lá hiệu Jet và bỏ vào ngăn chứa đồ phía trước bên trái của xe. Sau đó M điều khiển xe về nhà, khi đến nhà M lấy ra một đoạn ống nhựa lấy một ít ma túy cho vào ống bơm kim tiêm rồi sử dụng, phần còn lại M dùng quẹt gas đốt hàn lại như lúc ban đầu và bỏ lại vào ngăn chứa đồ phía trước bên trái của xe 59F1-437.10 đi ngũ, 6 giờ sáng cùng ngày bị cáo tiếp tục sử dụng xe mô tô này đi công việc, khi đến đường tỉnh 878 thuộc ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang thì M dừng xe cặp tỉnh lộ để rửa tay, lúc này có lực lượng công an tuần tra ghi ngờ nên kiểm tra thì phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- Một gói niêm phong, bên trong có chứa 03 (ba) đoạn hàn kín chứa bột màu trắng nghi là ma túy Heroine, được niêm phong có chữ ký xác nhận ghi họ tên Lưu Văn T1.

- Hai ống bơm kim tiêm màu trắng bằng nhựa;

- Một vỏ bao thuốc lá hiệu jet;

- Một quẹt ga bằng nhựa màu đỏ;

- Một xe mô tô hai bánh biển số xe 59F1-437.10 và một giấy đăng ký xe 59F1-437.10.

- Một điện thoại di động vỏ màu đen- vàng có chữ motorola;

- Một điện thoại di động vỏ màu đen mặt sau có ghi chữ Nokia.

Tại bản kết luận giám định số 42/KLGĐ-PC09 ngày 29/2/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: các mẫu chất bột màu trắng trong 03 (ba) đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín, để trong một bì thư màu trắng được niêm phong có chữ ký ghi họ tên: Lưu Văn T1; gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1598 gam loại Heroine.

Tại Bản cáo trạng số 41/KSĐT ngày 07 tháng 4 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo Trịnh Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trịnh Văn M trình bày: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố đối với bị cáo. Sau khi bị bắt bị cáo đã khai tên khác là Lưu Văn T1, lý do bị cáo khai không đúng họ tên là vì bị cáo mới vừa ra khỏi Cơ sở cai nghiện bắt buộc, bị cáo sợ bị Công an bắt lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tiếp. Còn Lưu Văn T1 là em họ của bị cáo, không có liên quan và hoàn toàn không biết về vụ việc này.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Bé T trong quá trình điều tra trình bày: cơ quan điều tra có cho bà gặp thân nhân đang bị tạm giữ tại Công an huyện Châu Thành, Tiền Giang là con trai ruột của bà tên là Trịnh Văn M, sinh năm 1990 có đăng ký thường trú tại ấp Long Bình A, xã Long Hưng huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, còn Lưu Văn T1 là cháu họ bên chồng. Hiện nay Lưu Văn T1 sống gần nhà bà. Trước đây bà có cho bị cáo M 10.000.000 đồng để mua xe mô tô hai bánh dùng để làm phương tiện làm ăn sinh sống, đối với số tiền mua xe bà không yêu cầu bị cáo M trả lại, đối với chiếc xe mà bị cáo dùng vào việc phạm tội, tại phiên tòa bà không yêu cầu giải quyết nữa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Trần Minh K và anh Ngô C trong quá trình điều tra trình bày: Anh C là chủ sở hữu chiếc xe biển số 59F1-437.10 loại xe Novo màu trắng bạc và có đăng ký tại Công an Quận 3 TPHCM, anh sử dụng được khoảng 04 năm thì bán lại cho một người thanh niên không biết họ tên với giá 14.000.000 đồng. Khi bán xe chỉ giao giấy tờ xe và không có làm thủ tục gì. Đối với anh Trần Minh K khai, anh có mua chiếc xe mô tô biển số nêu trên của một người thanh niên không biết họ tên, với giá là 10.000.000 đồng, sau đó anh không có nhu cầu sử dụng nên bán lại cho bị cáo M với giá là 10.000.000 đồng và cũng không có làm thủ tục sang tên, việc mua bán đã xong. Nay Anh C và anh K không yêu cầu giải quyết chiếc xe. Anh Trần Minh K có đơn xin vắng mặt phiên tòa, Anh C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng không có ý kiến.

Quá trình điều tra, người làm chứng là anh Nguyễn Duy H trình bày: Anh và bị cáo M không có quan hệ gì hết, vào khoảng 10 giờ 30 phút anh đang đi trên đường tỉnh lộ 878 đoạn qua ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang thì thấy lực lượng công an đang tiến hành chặn dừng kiểm tra người và xe mô tô hai bánh của M phát hiện thu giữ 03 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất màu trắng ghi là ma túy nằm trong vỏ bao thuốc lá hiệu Jet để trong ngăn chứa đồ phía trước bên trái của xe và công an có niêm phong lại người bị bắt có ký tên. Công an kiểm tra tiếp trên người của M thì thu giữa hai ống bơm kim tiêm bằng nhựa màu trắng nằm trong túi quần bên phải phía trước quần M đang bận.

Trong phần tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trịnh Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu tinh thể màu trắng còn lại sau giám định có khối lượng 0,1250 gam được niêm phong trong bì thư ký hiệu vụ số 42.

- Hai ống bơm kim tiêm màu trắng bằng nhựa;

- Một vỏ bao thuốc lá hiệu jet;

- Một quẹt ga bằng nhựa màu đỏ.

- Một giấy đăng ký xe 59F1-437.10.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: một xe mô tô hai bánh biển số kiểm soát 59F1-437.10 Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/04/2020 - Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo Một điện thoại di động vỏ màu đen- vàng có chữ motorola; Một điện thoại di động vỏ màu đen mặt sau có ghi chữ Nokia là đúng qui định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trịnh Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, sự thừa nhận này còn phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cở sở kết luận: khoảng 10 giờ 50 phút ngày 28/02/2020, Công an huyện Châu Thành tiến hành kiểm tra xe trên đoạn đường tỉnh lộ 878 thuộc ấp 1, xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, Tiền Giang phát hiện trong ngăn chứa đồ phía trước xe mô tô biển số 59F1-437.10 do Trịnh Văn M đang điều khiển có một vỏ bao thuốc lá hiệu Jet bên trong có 03 đoạn ống nhựa chứa chất bột màu trắng được hàn kín hai đầu là ma túy có khối lượng 0,1598 gam loại Heroine. Mục đích bị cáo mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trịnh Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

3. Hành vi tàng trữ phép chất ma tuý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quy định pháp luật và quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự xã hội và làm gia tăng các loại tội phạm. Khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rất rõ việc tàng trữ trái phép chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn tiếp tục thực hiện hành vi này. Điều này cho thấy ý thức của bị cáo xem thường pháp luật. Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là trường hợp nghiêm trọng nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới đủ sức giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

4. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, nhận thấy:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể vào ngày 19/12/2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong ngày 29/4/2014.

Có một tiền sự: Ngày 06/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong hạn 24 tháng. Đã chấp hành xong ngày 28/01/2019.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và có bà nội là bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1931 được Ủy ban nhân dân xã Long Hưng xác nhận là “Mẹ Việt Nam anh hùng” nên được áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

5. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua tại khu vực Phường 6, thành phố Mỹ Tho của một người nam, không biết họ tên địa chỉ cụ thể với số tiền 450.000. Ngoài lời khai này ra, của bị cáo không còn chứng cứ nào khác để chứng minh. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

6. Vật chứng vụ án:

- Đối với 03 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín để trong một bì thư màu trắng niêm phong có chữ ký ghi họ tên Lưu Văn T1 gởi giám định là ma túy có khối lượng 0,1598 gam loại Heroin. Chất bột màu trắng còn lại sau giám định có khối lượng 0,1250 gam được niêm phong trong bì thư ký hiệu vụ số 42. Như vậy đây là chất ma túy thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, do đó cần tịch thu tiêu hủy.

- Hai ống bơm kim tiêm màu trắng bằng nhựa; một vỏ bao thuốc lá hiệu jet; một quẹt ga bằng nhựa màu đỏ; một giấy đăng ký xe 59F1-437.10. Xét thấy các vật chứng trên không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. - Đối với xe mô tô biển số 59F1-437.10 mà bị cáo M sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy, xe này bị cáo được mẹ ruột là bà Lê Thị Bé T cho tiền để mua. Do đó có đủ cơ sở xác định đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo, nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Một điện thoại di động vỏ màu đen- vàng có chữ motorola; một điện thoại di động vỏ màu đen mặt sau có ghi chữ Nokia. Bị cáo dùng để sử dụng cá nhân, không liên quan đến vụ án. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành trả lại cho bị cáo là có cơ sở, nên không xem xét.

7. Đối với người nam bán ma túy cho bị cáo M, hiện không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể, Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh xử lý, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

8. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Ngô C và anh Trần Minh K là những người từng là chủ sở hữu chiếc xe 59F1-437.10. Cả hai điều thừa nhận đã bán chiếc xe này nhưng không làm thủ tục sang tên. Nay cũng không có ý kiến gì đối với chiếc xe trên. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

9. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Lê Thị Bé T là mẹ ruột của bị cáo M, trực tiếp cho bị cáo M 10.000.000 đồng mua xe mô tô biển 59F1- 437.10 để làm phương tiện làm ăn. Tại Tòa bà không yêu cầu bị cáo M hoàn trả lại 10.000.000 đồng và nay cũng không yêu cầu xin nhận lại xe. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét đề nghị của Đại diện viện kiểm sát phân tích tính chất mức độ phạm tội, đặc điểm nhân thân, tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo là có cơ sở phù hợp với qui định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử, nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào các điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trịnh Văn M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 28/02/2020.

2. Về vật chứng:

- Căn cứ vào khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu tinh thể màu trắng còn lại sau giám định có khối lượng 0,1250 gam được niêm phong trong bì thư ký hiệu vụ số 42.

- Hai ống bơm kim tiêm màu trắng bằng nhựa; - Một vỏ bao thuốc lá hiệu jet;

- Một quẹt ga bằng nhựa màu đỏ;

- Một giấy đăng ký xe 59F1-437.10 Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: một xe mô tô biển số 59F1-437.1.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 6/4/2020 tại Chi cục Thi hành án huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).

3.Về án phí:

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Bé T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HSST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về