Bản án 43/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2020/HSST-QĐ ngày 10 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo sau đây:

Lò Văn X (tên gọi khác: Không), sinh năm 1990; Nơi sinh huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Nơi ở và ĐKHKTT: Bản Ỏ, xã MS, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Lò Văn K và bà Vì Thị T; Vợ Lò Thị P và có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/01/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị P, sinh năm 1987, trú tại bản Ỏ, xã MS, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút, ngày 20/01/2020 tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hợp với Công an xã MS, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Ỏ, xã MS phát hiện bắt quả tang Lò Văn X cất giấu trái phép chất ma túy thu giữ trong túi áo khoác bên ngực trái X đang mặc 01 gói nilon màu trắng chứa 07 viên nén màu hồng (X khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ 01 xe mô tô Wave α màu xanh, biển kiểm soát 26B1-839.32, 01 chiếc điện thoại di động cùng một sim vinaphone và 01 áo khoác màu nâu.

Kết luật giám định số: 261 ngày 22/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tinh Sơn La kết luật: 07 viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn X có khối lượng 0,66 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Do nghiện chất ma túy. Khoảng 09 giờ ngày 20/01/2020 Lò Văn X điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26B1-839.32 lên bản NP, xã MS mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi X lên đến khu vực đầu bản X đi vào thì nhận ra người đàn ông chủ nhà (tên N khoảng 05 ngày trước X đã mua giúp 01kg bi sắt, 01 lọ cồn và 01 gói thuốc lào với số tiền 100.000 đồng) chưa trả tiền cho X, X hỏi và mua được 07 viên hồng phiến với giá 200.000 đồng (trừ 100.000 đồng mà N nợ từ trước) mua được ma túy X cho vào túi áo bên ngực trái đang mặc. Sau đó, Nụi lấy 02 viên hồng phiến ra mời X cùng sử dụng xong thì ngồi nói chuyện. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì X điều khiển xe mô tô đi về, khi về đến khu vực bản Ỏ, xã MS, huyện Sông Mã thì gặp tổ công tác Công an huyện Sông Mã phối hơp với Công an xã MS, làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang, thu giữ vật chứng và một số tài sản, đồ vật như đã nêu trên.

Nguồn gốc số ma túy thu giữ Lò Văn X khai nhận mua của một người đàn ông dân tộc Mông tên N ngày 20/01/2020 tại bản NP, xã MS, quá trình xác minh điều tra tại bản NP, xã MS không có ai tên Nụi như bị cáo khai nên cơ quan CSĐT không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án.

Do các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số: 44/CT-VKS, ngày 21 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Lò Văn X về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Lò Văn X khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Lò Văn X từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, lời khai của bị cáo tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội: Bị cáo Lò Văn X là người có nhận thức, biết được mọi hành vi liên quan đến ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện chất ma túy ngày 20/01/2020, bị cáo đi mua và cố ý tàng trữ 0,66 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ sau:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 30 phút ngày 20/01/2020 tại bản Ỏ, xã MS, huyện Sông Mã đối với Lò Văn X cùng vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 07 viên nén màu hồng có khối lượng 0,66 gam Methamphetamine.

Biên bản mở niên phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong vật chứng hồi 10 giờ 00 phút ngày 21/01/2020 và kết luật giám định số 261 ngày 22/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La.

- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Lò Văn X đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét về tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó cần có một mức án tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đảm bảo biện pháp răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nhận tội là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu tuy bị cáo chưa có tiền án tiền sự nhưng là đối tượng nghiện chất ma túy.

[5] Xét về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về vẫn đề liên quan: Đối với người đàn ông dân tộc Mông tên Nụi bán ma túy cho bị cáo ngày 20/01/2020 tại bản NP, xã MS. Qua điều tra xác minh tại bản NP không có ai tên N ngoài lời khai của bị cáo ra không có căn cứ nào khác, nên CQĐT không có căn cứ để xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 vỏ phong bì niêm; 01 mảnh túi nilon màu trắng và phong bên trong có chứa 0,49 gam Methamphetamine; 01 chiếc áo khoác là vật không còn giá trị sử dụng cấm lưu cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô Wave α màu xanh – đen nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 26B1-839.32, quá trình điều tra, xác minh xe là tài sản chung của hai vợ chồng, việc X phạm tội chị Lò Thị P (vợ X) không biết, không liên quan. Tại phiên tòa, chị P có ý kiến xin lại chiếc xe máy trên là có căn cứ, cần chấp nhận.

Đối với chiếc điện thoại di động là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố bị cáo Lò Văn X, phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn X 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/01/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm; 01 mảnh túi nilon màu trắng và phong bì bên trong có chứa 0,49 gam Methamphetamine; 01 chiếc áo, màu nâu, không có nhãn hiệu, đã cũ và rách. - Trả lại cho bị cáo Lò Văn X 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen xám, số Imel: 359262064802914 đã qua sử dụng.

- Trả cho chị Lò Thị P 01 xe mô tô Wave α màu xanh – đen nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 26B1-839.32, số khung RLHHC1211DY091289, số máy HC12E5291374, xe đã qua sử dụng, đã cũ và hỏng nhiều chỗ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 22/4/2020 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Bị cáo Lò Văn X phải chịu 200.000đ án phí hình sự sở thẩm.

5. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về