Bản án 43/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2020 đối với bị các cáo Phạm văn C và Lê Đình X phạm tội “ Trộm cắp tài sản” để giải quyết về phần xử lý vật chứng của vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Khu phố P, Phường P, thị xã P, tỉnh Bình Phước (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 24/11/2014, Phạm Văn C (SN 1987) sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, gắn BKS: 73E1 – 037.19, lần lượt chở Lê Đình X (SN 1987) và các đối tượng Q, T (không rõ nhân thân, lai lịch) đến quán cà phê 19, tại thôn 3, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave, BKS: 48H1 – 045.84, trị giá 20.490.000 đồng của anh Hồ V (SN 1981; HKTT: TDP 6, TT K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông) thì bị Công an huyện Đắk R’lấp phát hiện bắt giữ.

Ngày 01/12/2014 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’Lấp khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Phạm Văn C và Lê Đình X về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HSST ngày 17/04/2015, TAND huyện Đắk R’Lấp tuyên phạt Phạm Văn C 03 năm tù, Lê Đình X 01 năm tù; Về vật chứng vụ án, chiếc mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, gắn BKS: 73E1 – 037.19 được tuyên trả cho anh Nguyễn Văn H (SN 1978; trú tại: thôn V, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình). Sau đó, bị cáo C và bị cáo X có đơn kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt nhưng phiên tòa phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của 02 bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm trên.

Ngày 26/03/2019, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk R’Lấp ban hành Công văn số 86/CV-CCTHADS gửi Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, đề nghị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với 02 bản án trên về phần xử lý vật chứng là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, gắn BKS: 73E1 – 037.19, với lý do: “chưa đủ cơ sở xác định xe mô tô có gắn BKS; 73E1 – 037.19 có phải là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Văn H hay không”.

Ngày 17/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh ban hành quyết định kháng nghị tái thẩm số 21/QĐ-VC3-V1, kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HSST ngày 17/04/2015 của TAND huyện Đắk R’Lấp. Tại phiên tòa tái thẩm số 133/2019/HS-TT ngày 12/11/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, quyết định: “hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HS-ST ngày 17/04/2015 của TAND huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông về phần xử lý vật chứng là chiếc xe mô tô BKS: 73E1 – 037.19 đang tạm giữ tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk R’Lấp, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525”.

Kết quả điều tra lại thể hiện:

Ngày 30/3/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’Lấp ban hành quyết định trưng cầu giám định số 61: Truy nguyên số khung, số máy của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu sơn đỏ - đen; biển kiểm soát 73E1 037.19 gắn theo xe mô tô cần giám định là thật hay giả.

Tại bản kết luận giám định số 191/GĐX-PC09 ngày 27/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận về chiếc xe mô tô gắn BKS: 73E1 037.19, như sau: xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu sơn đỏ - đen, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525; biển số 73E1 037.19 không phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp (là biển giả).

Kết quả xác minh nguồn gốc phương tiện giao thông cơ giới đường bộ tại Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đắk Nông, thể hiện:

Xe mô tô có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525, có các thông tin như sau: biển số: 93P1 – 5032; chủ xe: Nguyễn Thị Thanh T, địa chỉ P, P, P (nay là thôn P, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước); loại xe: hai bánh từ 50-175 cm3; nhãn hiệu Yamaha; số loại 5C63; màu sơn: đỏ đen; dung tích xi lanh 110; ngày đăng ký mới, đăng ký lần đầu: 29/09/2009.

Xe mô tô mang biển số 73E1 037.19, có các thông tin như sau: chủ xe: Nguyễn Văn H, địa chỉ: Vĩnh P, Quảng L, Quảng T (nay là thị xã B), tỉnh Quảng Bình; loại xe: hai bánh từ 50-175 cm3; nhãn hiệu Yamaha; số loại: Sirius; màu sơn: đỏ đen; dung tích xi lanh: 110; số máy: 5C63549567; số khung: RLCS5C630BY549505; ngày đăng ký mới, đăng ký lần đầu: 15/11/2011.

Kết quả làm việc với bà Nguyễn Thị Thanh T, thể hiện: Năm 2009, bà T mua mới chiếc xe mô tô Sirius, hiệu Yamaha, màu sơn đỏ đen tại Cửa hàng xe máy T, địa chỉ Khu phố 1, phường T, TX. P, tỉnh Bình Phước với số tiền 14.500.000đ. Quá trình làm thủ tục đăng ký xe, bà Thủy đứng tên chủ sở hữu, xe mang BKS: 93P1 – 5032. Năm 2012, bà T đưa chiếc xe này cho con trai là anh Lê Đức A (SN; 1995) để làm phương tiện đi học tại TP.HCM. Trong một lần về nhà chơi thì anh A để chiếc xe mô tô trên tại phòng trọ của mình, ở địa chỉ: đường số 12, P. T, Quận 9, TPHCM thì bị mất trộm. Việc bị mất xe mô tô, bà T và anh A không trình báo với cơ quan chức năng.

Qua xác minh, anh Lê Đức A đi xuất khẩu lao động tại nước Nhật Bản từ tháng 3/2018 tới nay chưa về, nên cơ quan điều tra không làm việc được.

Kết quả làm việc với ông Nguyễn Văn H, thể hiện: Ông Nguyễn Văn H mua mới chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha; số loại: Sirius; màu sơn: đỏ đen tại công ty TNHH TM L, có địa chỉ: 539 L, phường B, Tp Đ, tỉnh Quảng Bình, với số tiền 17.300.000 đồng. Quá trình làm thủ tục đăng ký xe, ông H đứng tên chủ sở hữu, xe mang BKS: 73E1 037.19. Đầu năm 2012, ông H mang chiếc xe này vào TP D, tỉnh Bình Dương để sử dụng làm phương tiện đi lại. Cuối năm 2012, ông H cho người bạn tên là Đ (không rõ nhân thân lai lịch) mượn chiếc xe này đi lại. Sau đó, anh Đ báo cho ông H biết là chiếc xe mô tô này đã bị mất trộm trong lúc anh Đ đang rút tiền tại cây ATM. Việc bị mất xe mô tô, anh Đ và ông H không trình báo với vơ quan chức năng.

Đối với Phạm Văn C sau khi ra tù không về sinh sống tại địa phương, do vậy không xác định được hiện nay C đang ở đâu, làm gì, nên không có cơ sở để truy nguyên đối với chiếc xe nhãn hiệu Yamaha, loại: Sirius, có số máy: 5C63549567; số khung: RLCS5C630BY549505 và chiếc biển số giả: 73E1 – 037.19 từ đâu mà có để C dùng làm phương tiện phạm tội.

Ngày 06/7/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’ Lấp có công văn số 402/CV – VKS về việc chuyển hồ sơ đẻ xử lý vật chứng trong vụ án hình sự đề nghị giải quyết đề nghị:

Về hành vi của Phạm Văn C và Lê Đình X, tại bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HSST ngày 17/04/2015, của TAND huyện Đắk R’Lấp và bản án hình sự phúc thẩm số 58/2015/HSPT ngày 09/6/2015, của tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tuyên phạt Phạm Văn C 03 năm tù, Lê Đình X 01 năm tù. Án có hiệu lực, cả hai bị án đã chấp hành xong hình phạt, không bị kháng cáo kháng nghị.

Về phần vật chứng vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ - đen, gắn BKS: 73E1 – 037.19, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525, Phạm Văn C và Lê Đình X sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, quá trình điều tra thể hiện chiếc BKS: 73E1 – 037.19 là biển giả (Không phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp); Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525 chủ sở hữu hợp pháp là bà Nguyễn Thị Thanh T (SN 1977; địa chỉ thôn P, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước).

Về thời gian và giá trị đối với chiếc xe mô tô BKS: 93P1 – 5032 (số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525) mà bà Nguyễn Thị Thanh T khai mất trộm vào năm 2012; chiếc mô tô BKS: 73E1 037.19 (số máy: 5C63549567; số khung: RLCS5C630BY549505) mà ông Nguyễn Văn H khai mất trộm vào cuối năm 2012. Xét thấy, 02 vụ việc trên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên không đề cập xử lý.

Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Đối với 01 chiếc BKS: 73E1 – 037.19 là biển giả (Không phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp) không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525 là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bà Nguyễn Thị Thanh T, do vậy cần trao trả cho bà T theo đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về phần trách nhiệm hình sự và hình phạt đã được giải quyết tại bản án số 27/2015/HSST ngày 17/04/2015, của TAND huyện Đắk R’Lấp và bản án hình sự phúc thẩm số 58/2015/HSPT ngày 09/6/2015, của tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tuyên phạt các bị cáo Phạm Văn C 03 năm tù, Lê Đình X 01 năm tù. Án có hiệu lực, cả hai bị án đã chấp hành xong hình phạt, không bị kháng cáo, kháng nghị không đề cập xem xét [2]. Đối với phần xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ - đen, gắn BKS: 73E1 – 037.19, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525, Phạm Văn C và Lê Đình X sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, quá trình điều tra thể hiện chiếc BKS: 73E1 – 037.19 là biển giả (Không phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp); Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525 chủ sở hữu hợp pháp là bà Nguyễn Thị Thanh T (SN 1977; địa chỉ thôn P, xã P, huyện P, tỉnh Bình Phước).

Về thời gian và giá trị đối với chiếc xe mô tô BKS: 93P1 – 5032 (số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525) mà bà Nguyễn Thị Thanh T khai mất trộm vào năm 2012; chiếc mô tô BKS: 73E1 037.19 (số máy: 5C63549567; số khung: RLCS5C630BY549505) mà ông Nguyễn Văn H khai mất trộm vào cuối năm 2012. Xét thấy, 02 vụ việc trên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nên không đề cập xử lý là có căn cứ pháp luật nên không đề cập.

Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Đối với 01 chiếc BKS: 73E1 – 037.19 là biển giả (Không phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp) không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525 là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bà Nguyễn Thị Thanh T, do vậy cần trao trả cho bà T là phù hợp.

Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Thanh T vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) do đó căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Thanh T là có căn cứ pháp luật.

Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ và đúng pháp luật cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả cho bà Nguyễn Thị Thanh T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn đỏ- đen, có số khung RLCS5C6309Y248520, số máy 5C63248525 là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bà Nguyễn Thị Thanh T.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc BKS: 73E1 – 037.19 là biển giả (Không phải do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp) không còn giá trị sử dụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 24/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về