Bản án 43/2020/HSST ngày 16/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 43/2020/HSST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 44/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 60/2020/QĐXXST ngày 03 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Các bị cáo:

1. Phạm Phước L, sinh ngày 08 tháng 11 năm 1995, tại tỉnh Vĩnh Long. Nơi cư trú: ấp A, xã Tr, huyện V3, tỉnh Vĩnh Long Chỗ ở hiện nay: ấp Th, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: lớp 10/12. Nghề nghiệp: không. Con ông: Phạm Ngọc P8, sinh năm 1967, và bà: Huỳnh Thị N4, sinh năm 1968 (chết). Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Có vợ là: Phan Thị BT và có 01 con sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt giữ ngày 24/12/2019, chuyển tạm giam theo Lệnh số 38/CQĐT ngày 01/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

2. Nguyễn Hữu C, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1999, tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp C2, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam.

Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: lớp 12/12. Nghề nghiệp:

không. Họ tên cha: Nguyễn Văn H, sinh năm: 1963.Họ tên mẹ: Bùi Thị B3, sinh năm1963. Gia đình có 04 chị em, bị cáo là thứ tư và chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt giữ ngày 24/12/2019, chuyển tạm giam theo Lệnh số 39/CQĐT ngày 01/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

3. Lý Hoàng Q, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1994, tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp 1, xã P2, huyện N, Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Trình độ học vấn: lớp 8/12. Nghề nghiệp: không. Họ tên cha: Lý Thành Ng, sinh năm 1970. Họ tên mẹ: Đặng Thị Thanh H3, sinh năm 1975. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất. Có vợ là Nguyễn Thị Xuân Đ5, sinh năm 1992 và có 01 con sinh năm 2012.

Tiền sự: không.

Tiền án: Ngày 16/112016, bị Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2016 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/8/2019.

Bị bắt giữ ngày 24/12/2019, chuyển tạm giam theo Lệnh số 40/CQĐT ngày 01/01/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Ngọc P7, sinh năm: 1997;

Địa chỉ: Ấp C2, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

3. Những người làm chứng:

3.1. Ông Huỳnh Lê C4, sinh năm: 1988;

Địa chỉ: Ấp P4, xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

3.2. Bà Lê Thị Minh Đài, sinh năm: 1959;

Địa chỉ: Tổ 14A, ấp X, xã P1, huyện N, T.Đồng Nai.

3.3. Bà Lê Thị Kim L2, sinh năm: 1975;

Địa chỉ: Ấp 1, xã P2, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

3.4. Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm: 1962;

Địa chỉ: Ấp P4, xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

4. Người bào chữa cho các bị cáo L, C theo luật định: Ông Phạm Văn Đ2 - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư P5 - Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai.

Địa chỉ: 10S, Khu phố 4, P. T, Thành phố B, Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Phước L, Nguyễn Hữu C và Lý Hoàng Q là những người nghiện chất ma túy, trong đó Lý Hoàng Q đã có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, từ ngày 14/12/2019 đến ngày 24/12/2019, Phạm Phước L đã 05 lần mua ma túy loại Methamphetamine của M (không rõ họ tên địa chỉ), bằng cách mỗi lần cần mua ma túy thì L dùng số điện thoại 0937879471 gọi cho M theo số điện thoại 0906273365 để thỏa thuận giá cả và số lượng ma túy. Sau đó, M cho người mang ma túy đến giao cho L tại nhà L thuê thuộc ấp Th, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai và khi L bán xong thì M cho người đến lấy tiền, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào ngày 14/12/2019, Phạm Phước L mua của M 2,5gam ma túy, số tiền 1.600.000đ (Một triệu sáu trăm nghìn đồng). L sử dụng một ít, số ma túy còn lại L bán cho Lý Hoàng Q, với giá 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) tại nhà của L thuê tại ấp Th, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai thu L 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Khi Q muốn mua ma túy thì điện thoại cho L số 0937879471 hoặc 0931291426 để thỏa thuận số lượng, giá cả cũng như hẹn nơi giao ma túy. Số ma túy trên Q đã sử dụng hết.

- Lần thứ hai: Vào ngày 18/12/2019, L mua của M 05gam ma túy, với giá 3.700.000đ (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng), L lấy một ít sử dụng, số ma túy còn lại L bán cho Lý Hoàng Q số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng), thu L 100.000đ (Một trăm nghìn đồng). Số ma túy trên Q đã sử dụng hết.

- Lần thứ ba: Vào ngày 22/12/2019, L mua của M 05gam ma túy, với giá 3.700.000đ (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng), L lấy một ít sử dụng, số ma túy còn lại L bán cho Q số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng), nhưng Q hẹn chiều sẽ trả tiền cho L. Chiều cùng ngày, L nhờ Nguyễn Hữu C đến nhà Q lấy số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng) mang về đưa cho L và thu L 100.000đ (Một trăm nghìn đồng).

- Lần thứ tư: Vào khoảng 01 giờ sáng ngày 24/12/2019, L mua của M 05gam ma túy, số tiền 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng), L lấy một ít sử dụng. Số còn lại L bán cho Q số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm nghìn đồng), thu L 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Đồng thời Q hẹn trước với L chiều sẽ mua tiếp một gói ma túy nữa. Tất cả số ma túy Q mua của L 04 lần trên, Q mang về phòng 102 nhà nghỉ N thuộc xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai, phân ra thành 12 gói nhỏ. Q đã sử dụng 01 gói, còn lại 11 gói ma túy có trọng lượng 13,8028gam ma túy loại Methamphetamine. Khoảng 12 giờ ngày 24/12/2019 Huỳnh Lê C4, sinh ngày 08/7/1988, ngụ tại ấp P4 1, xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai, gọi điện Lý Hoàng Q hỏi mua một gói ma túy, số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), Q hẹn giao ma túy tại nhà nghỉ 769 thuộc xã P1, huyện N. Khi Q mang ma túy đến điểm hẹn để bán thì bị Cơ quan Công an huyện Nhơn Trạch kiểm tra phát hiện bắt thu giữ 13,8028gam ma túy loại Methamphetamine; 01 (một) xe mô tô hiệu Exciter biển số 62L1- 147.56; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số sim 0785008787; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số sim 0933091703; 01 (một) bóp vải màu nâu cùng số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

- Lần thứ năm: Vào khoảng 16 giờ ngày 24/12/2019, L mua của M 49,8341 ma túy, số tiền 17.500.000đ (Mười bảy triệu năm trăm nghìn đồng). Sau đó, L gọi điện thoại cho Nguyễn Hữu C nói C đến gặp L ở trước phòng khám bác sĩ Th3 tại xã P, huyện N để nhận ma túy mang giao cho Q. C đi xe mô tô biển số 60C2- 343.93 của L (do buổi trưa cùng ngày L đổi xe mô tô cho C) đến gặp L nhận một hộp giấy bên trong có 49,8341gam ma túy loại Methamphetamine. Trên đường đi đến gần nhà Q thì bị Cơ quan Công an huyện Nhơn Trạch phát hiện bắt giữ thu giữ 49,8341gam ma túy loại Methamphetamine; 01 (một) xe mô tô hiệu Wave biển số 60C2- 343.93 và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO số sim 0789370687. Ngay sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch bắt giữ Phạm Phước L thu giữ: 01 (một) xe mô tô hiệu Airblade, biển số 60C2- 453.54 (xe của C); 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số sim: 0901291426; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số sim: 0937879471 và số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Ngoài ra (không nhớ ngày tháng cụ thể) L còn bán cho tên P6 (không rõ tên tuổi, địa chỉ) 03 lần, mỗi lần 01 gói ma túy, số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Tại bản kết luận giám định số 1712/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng (thu của C) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 49,8341 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản kết luận giám định số 1713/ KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận (ma túy thu của Q): Mẫu tinh thể màu trằng (kí hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,9864 gam, loại Methamphetamine; Mẫu tinh thể màu trằng (kí hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 6,1068 gam, loại Methamphetamine; Mẫu tinh thể màu trằng (kí hiệu M3) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 6,7096 gam, loại Methamphetamine.

Tại bản Cáo trạng số 692/CT-VKS-P1 ngày 18/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố các bị cáo Phạm Phước L và đồng phạm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 và điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Luật sư Phạm Văn Đ2 bào chữa cho các bị cáo L, C theo luật định phát biểu: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo L có con còn nhỏ, là lao động chính; bị cáo L, C có quá trình tham gia trong quân đội và hoàn thành tốt nghĩa vụ quân sự, gia đình có công với cách mạng có ông ngoại tham gia kháng chiến, bị cáo C tham gia trong vụ án với vai trò đồng phạm giúp sức. Với các tình tiết giảm nhẹ trên, bị cáo L và C được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xem xét chiếu cố cho các bị cáo khi lượng hình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo L, C, Q là nguy hiểm cho xã hội, gây tác hại lớn cho cộng đồng và việc bài trừ ma túy của Nhà nước nên cần phải có mức án trừng trị thích đáng, nhưng xét các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, 2 bị cáo L và C chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo L có con còn nhỏ, là lao động chính; bị cáo L, C có quá trình tham gia trong quân đội và hoàn thành tốt nghĩa vụ quân sự, gia đình bị cáo C có công với cách mạng có ông ngoại tham gia kháng chiến, bị cáo C tham gia trong vụ án với vai trò đồng phạm giúp sức. Nên bị cáo L, C được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Phạm Phước L mức án từ 15 năm đến 17 năm tù; bị cáo Nguyễn Hữu C từ 12 năm đến 14 năm tù; Bị cáo Lý Hoàng Q mức án từ 08 năm đến 10 năm tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo theo luật định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho các bị cáo, các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi và vai trò của các bị cáo thực hiện trong vụ án:

Theo lời khai của bị cáo Phạm Phước L thì từ ngày 14/12/2019 đến ngày 24/12/2019, bị cáo đã 05 lần mua ma túy của tên M (không rõ họ tên địa chỉ), mang về sử dụng một ít và phân ra thành nhiều gói nhỏ mang bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo Lý Hoàng Q đã thực hiện 05 lần hành vi mua bán ma túy. Cụ thể bị cáo Q đã 04 lần mua ma túy của tên Phạm Phước L và 01 lần bán ma túy cho Huỳnh Lê C4 nhưng chưa kịp bán thì bị bắt và bị cáo Nguyễn Hữu C đã có hành vi thực hiện 01 lần theo sự phân công của bị cáo L đi nhận và giao ma túy thì bị bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo Phạm Phước L và Nguyễn Hữu C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi của bị cáo Lý Hoàng Q đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy dưới bất cứ hình thức nào đều bị Nhà nước nghiêm cấm, ai vi phạm sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc nhưng do nghiện ngập muốn có ma túy để sử dụng thỏa mãn sự nghiện ngập và biết ma túy là mặt hàng siêu L nhuận, các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, cố ý lao vào con đường phạm tội, thực hiện trót lọt nhiều lần hành vi mua ma túy tổng hợp mang về sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện khác nhằm thu L bất chính. Hành vi của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện các bị cáo là người không có đạo đức, xem thường pháp luật, lôi kéo một số thanh thiếu niên hư hỏng có lối sống thực dụng vào con đường hút hít nghiện ngập ma túy, làm băng hoại xã hội, suy đồi nòi giống dễ dẫn đến nhiều căn bệnh nguy hiểm khác, nhất là căn bệnh HIV/AIDS hiện nay chưa có thuốc chữa. Nếu hành vi của các bị cáo không được Cơ quan điều tra kịp thời phát hiện bắt giữ, xử lý thì sẽ gây ra nhiều tác hại lớn cho xã hội, sẽ làm cho nhiều gia đình phải đau khổ khi có người thân vướng vào con đường hút, hít, nghiện ngập ma túy và làm ảnh hưởng đến việc bài trừ ma túy ở địa phương Xét trong vụ án: Bị cáo Phạm Phước L là người chủ mưu tích cực thực hiện nhiều lần hành vi mua bán 67,3341 gam ma túy trong đó khi bị bắt thu giữ là 63,6369gam ma túy loại Methamphetamine. Bị cáo Nguyễn Hữu C phạm tội với vai trò đồng phạm thực hiện tích cực hành vi theo sự phân công của tên L đi nhận và giao 49,8341gam ma túy loại Methamphetamine để hưởng L. Bị cáo Lý Hoàng Q là người thực hiện hành vi mua bán 13,8028 gam ma túy loại Methamphetamine của Phạm Phước L để sử dụng và bán lại cho con nghiện khác. Do đó, cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm, cách ly khỏi xã hội một thời gian dài nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Đối với 02 bị cáo L và Q cần phạt các bị cáo một khoản tiền để sung công. Riêng bị cáo C tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Trong vụ án này, bị cáo Phạm Phước L phạm tội 02 lần trở lên phạm vào tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo Lý Hoàng Q thuộc trường hợp “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuy nhiên, xét các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, 02 bị cáo L và C chưa có tiền án, tiền sự; 02 bị cáo L và C có quá trình tham gia trong Quân đội, hoàn thành tốt nghĩa vụ quân sự, bị cáo L có con còn nhỏ, là lao động chính; bị cáo C tham gia trong vụ án với vai trò đồng phạm giúp sức, gia đình có công với cách mạng có ông ngoại tham gia kháng chiến. Với các tình tiết giảm nhẹ trên của các bị cáo, 02 bị cáo L và C được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét chiếu cố cho các bị cáo khi lượng hình.

[4] Quan điểm của luật sư bào chữa theo luật định cho các bị cáo L, C phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai và đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận [6] Về biện pháp tư pháp:

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là: 13,5239 gam Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 1713/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2019) và 49,6961 gam Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 1712/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2019) cùng 01 (một) bóp vải màu nâu đựng ma túy thu của Q và 01 (một) hộp giấy màu vàng đựng ma túy khi bắt C là vật chứng vụ án không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA số sim 0785008787, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung số sim 0933091703 (thu của Lý Hoàng Q); 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO số sim 0789370687 (thu của Nguyễn Hữu C); 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số sim 0901291426, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số sim 0937879471 (thu của Phạm Phước L), các bị can sử dụng để liên lạc mua bán ma túy; số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) của Phạm Phước L là tiền do mua bán ma túy mà có. Nghĩ tịch thu sung công quỹ Nhà nước là phù hợp.

- Đối với chiếc xe mô tô biển số 60C2- 453.54 (là xe của C đổi cho L sử dụng) do chị Nguyễn Thị Ngọc P7(Chị ruột của Nguyễn Hữu C) đứng tên chủ sở hữu cho C mượn sử dụng làm phương tiện đi lại do không liên quan đến vụ án nên cần trả lại chị P7 là phù hợp.

- Đối với số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) của Lý Hoàng Q, cần tiếp tục tạm giữ để thi hành án là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 62L1- 147.56 được thu giữ khi bắt Lý Hoàng Q do người tên S thế chấp vay 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) của Q và khi thế chấp thì không có hợp đồng. Qua xác minh xác định anh Nguyễn Minh Ph, sinh năm 1969, ngụ ấp V, xã M3, huyện C5, tỉnh Long An đã mua xe đăng ký từ năm 2017 và năm 2018 bán xe cho người khác không làm thủ tục sang tên. Chiếc xe mô tô biển số 60C2- 343.93 được thu giữ khi bắt Nguyễn Hữu C là xe của L đổi cho C sử dụng, do L cầm của một người phụ nữ (không nhớ ngày tháng) với số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) và khi cầm không có hợp đồng nên không biết tên của người phụ nữ này. Qua xác minh, xác định chủ xe tên Nguyễn Thanh X3, sinh năm 1977, hộ khẩu thường trú ấp Th, xã P, huyện N. Hiện nay, Nguyễn Thanh X3 không có mặt tại địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai tiếp tục xác minh làm rõ hai chiếc xe trên và xử lý sau là phù hợp.

Đối với tên M (không rõ họ, địa chỉ) là người bán ma túy cho bị cáo Phạm Phước L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào bắt được sẽ xử lý sau. Riêng số điện thoại 0906273365 là số điện thoại của M liên lạc với L để bán ma túy. Qua xác minh, xác định chủ thuê bao là Công ty cổ phần DK do ông Vũ Tiến D2 làm Chủ tịch hội đồng quản trị, trụ sở chính tại 1-5 đường L4, phường B1, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh và tại công ty không có ai sử dụng số điện thoại trên.

- Đối với chiếc xe mô tô chị biển số 60C2- 453.54 là xe của Nguyễn Thị Ngọc P7 đứng tên chủ sở hữu (chị gái của Nguyễn Hữu C) cho C mượn sử dụng, C mang đổi cho L mượn sử dụng) do không liên quan đến vụ án nên cơ quan điều tra đã giao trả lại cho chị P7 nên Tòa không đặt ra giải quyết .

Đối với Huỳnh Lê C4 là người sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện Nhơn Trạch đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Huỳnh Lê C4 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, là phù hợp.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố các bị cáo Phạm Phước L, Nguyễn Hữu C và Lý Hoàng Q phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251, điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Phạm Phước L 16 (Mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2019.

Phạt bị cáo Phạm Phước L phải nộp 20.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 251, điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, khoản 1, khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu C 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2019.

Căn cứ vào điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lý Hoàng Q 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2019.

Phạt bị cáo Lý Hoàng Q phải nộp 10.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước [2] Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định là: 13,5239 gam Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 1713/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2019) và 49,6961 gam Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 1712/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2019) cùng 01 (một) bóp vải màu nâu đựng ma túy thu của Q và 01 (một) hộp giấy màu vàng đựng ma túy thu của C.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước các vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA số sim 0785008787, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung số sim 0933091703 (thu của Lý Hoàng Q); 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO số sim 0789370687 (thu của Nguyễn Hữu C); 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia số sim 0901291426, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, số sim 0937879471 (thu của Phạm Phước L), các bị cáo sử dụng liên lạc mua bán ma túy; số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) của Phạm Phước L là tiền do mua bán ma túy mà có.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) của Lý Hoàng Q để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/5/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai)

[3] Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HSST ngày 16/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về