Bản án 43/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 40/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Đồng Tấn P, sinh năm: 1998, tại: H Đ, Kiên Giang; Nơi cư trú: ấp H K, xã T K H, huyện G T, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đồng Văn M và bà Huỳnh Kim N; Vợ: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 12/2/2020 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 20 phút, ngày 12/02/2020, Đồng Tấn P điều khiển xe mô tô hiệu SINODA, màu xanh, biển số: 68T4-9**2 (xe của anh Đồng Tấn L cho P mượn đi mua cơm) đi tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến đoạn đường Nguyễn Trung Trực, thuộc khu phố A, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, thì gặp người tên N (chưa xác định được nhân thân) hỏi P có mua ma túy sử dụng không, P nói có nên N lấy ra 01 bịch ma túy, bán cho P với giá 300.000 đồng, nhưng P chỉ trả trước 150.000 đồng. Mua ma túy xong, P điều khiển xe đến đường Lê Hồng Phong, thuộc khu phố 5, thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang dừng lại để mua cơm thì bị lực lượng Công an huyện Phú Quốc kiểm tra phát hiện Phát đang cất giấu 01 bịch ma túy trong túi quần phía trước bên trái nên P bị bắt quả tang cùng vật chứng. Ngày 19/02/2020, Đồng Tấn P bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Phú Quốc khởi tố và ra lệnh tạm giam để điều tra.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) bịch nylon màu trắng, có kích thước khoảng 1,5cm x 2,3cm được hàn kín, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất; 01 (một) điện thoại di động màu đen, hiệu NOKIA, số IMEI 1: 355752109106747; Số IMEI 2: 357705101106741, đã qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô, nhãn hiệu SINODA, màu xanh, biển số kiểm soát 68T4-9812, số máy 1P52FM4-A008663, số khung: ĐCHH041 008663, đã trao trả cho chủ sở hữu là anh Đồng Tấn L.

*Tại bản Kết luận giám định số 133/KL-KTHS ngày 16/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất được đựng trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamin. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3672 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 133/KL-KTHS ngày 16/02/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

Bản cáo trạng số 51/CT-VKSPQ ngày 03 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố bị cáo Đồng Tấn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: khoảng 11 giờ 20 phút ngày 12/2/2020 bị cáo đang chạy xe trên đường đoạn đường Nguyễn Trung Trực thuộc khu phố 5, thị trấn Dương Đông thì gặp N, N hỏi bị cáo có mua ma túy không, bị cáo đồng ý mua với giá 300.000đ nhưng hết tiền nên chỉ trả 150.000đ. Sau khi mua được ma túy bị cáo chạy xe đến quán cơm gần đó để mua cơm thì bị lực lượng Công an huyện Phú Quốc khám xét thu giữ trong túi quần jeans phía trước của bị cáo có một bịch ma túy.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội đối với bị cáo. Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đồng Tấn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự năm 2015. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Đồng Tấn Phát từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 0,3571 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định và bao gói đựng mẫu niêm phong.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động màu đen, hiệu NOKIA, số IMEI 1: 355752109106747; Số IMEI 2: 357705101106741, đã qua sử dụng;

Đối với người tên N Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý sau.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng viện kiểm sát truy tố và lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã tuân thủ nghiêm các quyền và nghĩa vụ của mình, thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Tại bản Kết luận giám định số 133/KL-KTHS ngày 16/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang kết luận bịch ma túy thu giữ trên người bị cáo có khối lượng khối lượng là 0,3672 gam, loại Methamphetamin.

Như vậy Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở để xác định cáo trạng mà viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc truy tố bị cáo Đồng Tấn P về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tại thời điểm phạm tội bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi cất giữ trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào đều vi phạm pháp luật nhưng cần ma túy để sử dụng thỏa mãn nhu cầu bản thân mà bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Ma túy đang là hiểm họa của toàn nhân loại vì nó không những gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng mà còn là nguyên nhân gây lây lan nhiều căn bệnh xã hội nguy hiểm và tạo tiền đề cho các hành vi phạm tội khác. Do đó, Hội đồng xét xử phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và cũng phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động màu đen, hiệu NOKIA, số IMEI 1: 355752109106747; Số IMEI 2: 357705101106741, đã qua sử dụng;

Đối với xe mô tô, nhãn hiệu SINODA, màu xanh, biển số kiểm soát 68T4-9812, số máy 1P52FM4-A008663, số khung: ĐCHH041 008663, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc đã trao trả cho chủ sở hữu anh Đồng Tấn L, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: bị cáo Đồng Tấn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Bị cáo Đồng Tấn P 01 (một) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/02/2020.

2.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 0,3571 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định và bao gói đựng mẫu niêm phong.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động màu đen, hiệu NOKIA, số IMEI 1: 355752109106747; Số IMEI 2: 357705101106741, đã qua sử dụng;

(Tang vật trên đã được chuyển giao cho chi cục thi hành án Dân sự huyện Phú Quốc theo quyết định chuyển giao vật chứng số 28/QĐ-VKSPQ-HS ngày 03/4/2020).

3. Về án phí căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về