Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 43/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 148/2020/TLST – HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2020, về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐST - HNGĐ ngày 06/8/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Dương Thị N.E, sinh năm 1991 (có mặt) - Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1986   (có mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Cháu Trần T Tr, sinh ngày 13/3/2011 (vắng mặt)

Cháu Trần T Tsinh ngày 20/9/2013 (vắng mặt)

Cùng trú tại: Tổ 3, ấp Thạch M, xã Tân L, huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn chị Dương Thị N.E trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị N.E và anh Trần Văn T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Qúy Nh, huyện Nghĩa H, tỉnh Nam Đ. Qúa trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng từ khoảng 03 năm trở lại đây vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cuộc sống chung vợ chồng không hoà hợp, anh T hay ăn nhậu, đánh bài gây nợ nần, không lo cho gia đình vợ con, dẫn đến vợ chồng cãi nhau khiến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng đã ly thân đến nay được 04 tháng, không quan tâm tới nhau. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, đôi bên không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn T.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Qúa trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung là Trần T Tr sinh ngày 13/3/2011 và cháu Trần T Tsinh ngày 20/9/2013, khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung cho đến khi con chung trưởng thành, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung, các khoản nợ chung, các vấn đề khác: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị không trình bày và không có yêu cầu gì khác.

Qúa trình giải quyết vụ án bị đơn anh Trấn Văn T trình bày:

Anh Trần Văn T và chị Dương Thị N.E tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Qúy Nh, huyện Nghĩa H, tỉnh Nam Đ. Qúa trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, có phát sinh mâu thuẫn cãi nhau nhưng mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng. Anh thừa nhận anh có ăn nhậu, chơi bài, gây nợ nần, có vài lần anh ăn nhậu rồi đánh bài không về nhà khiến vợ không hài lòng, dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn cãi nhau nhưng chưa đến mức trầm trọng, do anh vẫn còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn với vợ. Nếu vợ cương quyết yêu cầu được ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn.

Sau khi Tòa án hòa giải anh T và chị N.E thống nhất thuận tình ly hôn. Nhưng chưa hết 07 ngày kể từ ngày Tòa án lập biên bản tự nguyện ly hôn và hòa giải thành thì anh T có văn bản trình bày thay đổi ý kiến về việc không đồng ý ly hôn.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Qúa trình chung sống, vợ chồng có 02 con chung là Trần T Tr sinh ngày 13/3/2011 và cháu Trần T T sinh ngày 20/9/2013, trong trường hợp ly hôn thì anh đồng ý giao hai con chung cho chị Dương Thị N.E trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung.

Về tài sản chung, các khoản nợ chung, các vấn đề khác: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra anh không trình bày và không yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa, anh T đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị Dương Thị N.E.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích, giải thích cho nguyên đơn và bị đơn cho nhau cơ hội để vợ chồng đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng nguyên đơn chị Dương Thị N.E khẳng định cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng, đôi bên không thể tiếp tục cuộc sống chung được nữa nên chị giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh Trần Văn T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Phước phát biểu quan điểm:

 - Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án là đúng với quy định pháp luật.

- Quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Việc tự nguyện kết hôn, chung sống giữa chị Dương Thị N.E và anh Trần Văn T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn khẳng định đã hết tình cảm với chồng, vợ chồng đã ly thân đến nay đã được một thời gian, thể hiện tình cảm không còn, mâu thuẫn trầm trọng, không thể kéo dài cuộc sống hôn nhân nên đề nghị Hội đồng xét xử dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Dương Thị N.E được ly hôn với anh Trần Văn T.

Về con chung, cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung và các vấn đề khác: Không xem xét giải quyết do các đương sự không yêu cầu.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn Dương Thị N.E khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn Trần Văn T. Bị đơn có nơi cư trú tại tổ 3, ấp Thạch M, xã Tân L, huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Phước. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xác định đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Phước.

[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị N.E và anh Trần Văn T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Qúy Nh, huyện Nghĩa H, tỉnh Nam Đ. Xét đây là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ đầy đủ các quy định của Luật hôn nhân và gia đình đã quy định nên được pháp luật bảo vệ.

Tại phiên tòa, các bên đương sự thừa nhận, trong quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, nguyên nhân do anh T thường ăn nhậu, đánh bài rồi gây nợ nần, không quan tâm chăm sóc cho gia đình vợ con. Do mâu thuẫn nên vợ chồng đã ly thân đến nay đã được 04 tháng. Nguyên đơn chị Dương Thị N.E xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được nên kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Bị đơn anh T thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nhưng không trầm trọng, anh T thừa nhận do anh T thường ăn nhậu, chơi bài gây nợ nần, thiếu sự quan tâm chăm lo cho vợ con, mặc dù vậy anh vẫn còn tình cảm với vợ nên mong muốn được đoàn tụ gia đình, nhưng nếu vợ kiên quyết ly hôn thì anh cũng đồng ý lý hôn.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã nhiều lần hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ với nhau, xây dựng hạnh phúc gia đình, chăm lo cho con cái nhưng nguyên đơn kiên quyết giữ nguyên yêu cầu được ly hôn, anh T cũng đồng ý ly hôn. Qua xác minh những thành viên trong gia đình và chính quyền địa phương được biết, vợ chồng chị N.E và anh T thường xảy ra mâu thuẫn, anh T thường xuyên ăn nhậu, không chăm lo cho gia đình dẫn đến vợ chồng hay xung đột, hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2020 cho tới nay. Điều này thể hiện mâu thuẫn hôn nhân đã lầm vào tình trạng trầm trọng, hôn nhân không hạnh phúc, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, tuyên xử cho chị Dương Thị N.E được ly hôn với anh Trần Văn T là phù hợp và có căn cứ.

[2.2] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con:

Quá trình chung sống, chị Dương Thị N.E và anh Trần Văn T có hai người con chung tên Trần T Tr sinh ngày 13/3/2011 và Trần T Tsinh ngày 20/9/2013. Tại đơn khởi kiện nguyên đơn không yêu cầu giải quyết về con chung nhưng tại phiên tòa nguyên đơn yêu cầu được nuôi dưỡng chăm sóc hai con chung, hơn nữa để đảm bảo quyền lợi của con chung chưa thành niên và cần giải quyết triệt để vấn đề về con chung trong vụ án hôn nhân, Tòa án đã lấy lời khai ghi nhận nguyện vọng của con chung trên 07 tuổi đối với cháu Trần T Tr, cháu Trọng có nguyện vọng được sống cùng với mẹ ruột khi bố mẹ ly hôn.

Qua xác minh thấy rằng, hiện nguyên đơn có chỗ ở ổn định, có công việc, thu nhập kinh tế nên đảm bảo được việc chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung. Tại phiên tòa, các đương sự cũng thống nhất thỏa thuận khi ly hôn giao hai con chung cho chị Dương Thị N.E trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi. Do đó, cần ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, giao hai con chung cho chị Dương Thị N.E trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Các bên đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung và các vấn đề khác: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Phước tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Án phí hôn nhân sơ thẩm nguyên đơn Dương Thị N.E phải chịu theo quy định.

 Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 110 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014:

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39:

Điều 147, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Tuyên xử cho chị Dương Thị N.E được ly hôn với anh Trần Văn T.

Về con chung, cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, giao con chung tên Trần T Tr sinh ngày 13/3/2011 giới tính nam và Trần T Tsinh ngày 20/9/2013 giới tính nam cho mẹ ruột là chị Dương Thị N.E trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, anh T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định pháp luật, không ai có quyền cản trở việc thăm nom, chăm sóc con chung của anh T. Anh T không được lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc con chung để cản trợ việc giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của chị Dương Thị N.E và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của con chung.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con sau này khi cần thiết.

Về tài sản chung, nợ chung và các vấn đề khác: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Dương Thị N.E phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0004070 quyển số 0082 ngày 21/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Ph, tỉnh Bình Phước.

Nguyên đơn có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được được bản án hoặc niêm yết bản án tại địa phương theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về