Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 43/2020/HNGĐ–ST NGÀY 24/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 196/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1992. (Vắng mặt).

Trú tại: Thôn Đông La 2, xã Lộc Đức, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. (Địa chỉ liên lạc: Số 19, Hai Bà Trưng, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương)

2/. Bị đơn: Chị Nguyễn Trúc M, sinh năm 1983. (Vắng mặt).

Trú tại: Số 135, Khóm 8, Phường 1, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Văn H trình bày: Anh và chị Nguyễn Trúc M quen biết nhau hoàn toàn tự nguyện và tiến tới hôn nhân vào năm 2015 và đăng ký kết hôn tại UBND Phường 1, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 17/12/2015. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc cho đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nên anh và chị M ly thân cùng thời điểm năm 2016, khoảng thời gian ly thân, anh và chị M không còn quan tâm đến nhau, anh thấy cuộc sống hôn nhân không còn ý nghĩa, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh muốn được ly hôn với Mai, để mỗi người có cuộc sống riêng.

Về con chung: Thời gian chung sống vợ chồng có 01 đứa con chung là Nguyễn Vương K, sinh ngày 02/11/2015, khi vợ chồng ly thân thì cháu K sống cùng với M, anh vẫn thường cấp dưỡng tiền cho chị M nuôi con, khi ly hôn anh đồng ý giao cháu K cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: vợ chồng không có nợ tài sản gì của ai và không ai nợ tài sản gì của vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn chị Nguyễn Trúc M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án.

Tại Biên bản ghi lời khai ngày 17/6/2020 và biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 13/7/2020 thì anh Nguyễn Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu, ý kiến của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về nội dung: Anh H và chị M chung sống vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, đây là hôn nhân là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, cuộc sống vợ chồng đến nay đã xảy ra mâu thuẫn không hàn gắn được, anh, chị cũng đã sống ly thân một thời gian dài, nên có căn cứ để chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H.

Về con chung: Hiện nay cháu Nguyễn Vương K, sinh ngày 02/11/2015, đang sống cùng với chị M và anh H cũng đồng ý giao cháu K cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, nên có căn cứ giao cháu K cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung không có nên không đặt ra giải quyết.

- Về án phí hôn nhân gia đình: Anh Nguyễn Văn H phải nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu về việc tuân theo pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Văn H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Nguyễn Trúc M có địa chỉ hiện nay tại thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Theo quy định tại Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Bạc Liêu.

[2] Về thủ tục: Nguyên đơn anh Nguyễn Văn H có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 22/5/2020 nộp tại Tòa án, xét thấy đơn xin xét xử vắng mặt của anh H hoàn toàn tự nguyện và không trái với pháp luật, nên được chấp nhận. Chị Nguyễn Trúc M đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, triệu tập xét xử ngày 07/8/2020 và ngày hôm nay (ngày 24/8/2020) nhưng chị M không đến Tòa án, nên không thể tiến hành hòa giải. Căn cứ vào các Điều 207, 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không thể tiến hành hòa giải, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về nội dung khởi kiện: Nguyên đơn anh Nguyễn Văn H yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Trúc M.

[3.1] Xét về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Trúc M quen biết nhau hoàn toàn tự nguyện và tiến tới hôn nhân vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường 1, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 17/12/2015. Nên hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Trúc M là hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét về nguyên nhân mâu thuẫn: Anh Nguyễn Văn H cho rằng chung sống thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng sau khi có đứa con thì vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và không còn sống chung với nhau từ năm 2016 đến nay; khi ly thân thì anh và chị M không còn quan tâm, chăm sóc và không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng, anh H xác định mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng anh H và chị M đã không có biện pháp giải quyết mà lựa chọn không sống chung nhau và trong khoảng thời gian không sống chung cả hai đều không có biện pháp hàn gắn, càng làm cho mâu thuẫn càng lớn thêm, thậm chí Tòa án triệu tập chị M đến Tòa án để tiến hành hòa giải, nhưng chị M cố tình không đến Tòa án theo triệu tập. Do đó, mâu thuẫn giữa anh H và chị M đã nghiêm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh H là phù hợp.

[3.2] Về con chung: Anh Nguyễn Văn H xác định vợ chồng có 01 người con chung là cháu Nguyễn Vương K, sinh ngày 02/11/2015, khi vợ chồng không sống chung thì cháu K sống cùng với chị M đến nay, khi ly hôn anh H đồng ý giao cháu K cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Xét thấy, cháu K chưa được 05 tuổi, hiện đang sống cùng chị M, anh H cũng đồng ý giao cháu K cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là tự nguyện của anh H, phù hợp quy định pháp luật và không làm xáo trộn đời sống cháu K, nên ghi nhận sự tự nguyện của anh H.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H đồng ý giao cháu K cho chị M và không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con, chị M trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án không có ý kiến gì về vấn đề cấp dưỡng nuôi con hay vấn đề nào khác, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến anh H không đặt ra giải quyết vê vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, chị M vẫn có quyền yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

[3.3] Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn H xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[3.4] Về nợ chung: Anh Nguyễn Văn H xác định vợ chồng không có nợ tài sản gì của ai và cũng không ai nợ tài sản gì của vợ chồng nên không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình anh Nguyễn Văn H phải nộp theo quy định pháp luật.

Từ những phân tích trên, xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 207, 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1./ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn H được ly hôn với chị Nguyễn Trúc M.

2/. Về con chung: Giao 01 người con chung là cháu Nguyễn Vương K, sinh ngày 02/11/2015 cho chị Nguyễn Trúc M chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu Nguyễn Vương K đang sống cùng chị M nên được giữ nguyên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử ghi nhận không đặt ra giải quyết.

3/. Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn H xác định vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về nợ chung: Anh Nguyễn Văn H xác định vợ chồng không có nợ tài sản gì của ai và cũng không ai nợ tài sản gì của vợ chồng nên không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5/. Về án phí: Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình anh Nguyễn Văn H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), anh Nguyễn Văn H đã dự nộp số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006850 ngày 08/6/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu được chuyển thu án phí.

Án sơ thẩm xử công khai, anh Nguyễn Văn H, chị Nguyễn Trúc M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về