Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 01/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 43/2020/HNGĐ-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 01 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 102/2020/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 6 năm 2020, về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐXX-ST ngày 29 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Đầu Thị Q, sinh n¨m 1984 HKTT: Thôn H, xã T, huyện Đ, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở hiện nay: Số ***/**, đường B, phường B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

* Bị đơn: Anh Hoàng Duy H, sinh năm 1979 HKTT: Thôn B, xã N, huyện Đ, tỉnh Thái Bình.

Hiện đang thi hành án tại: Phân trại số *, Trại giam T- Địa chỉ: huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

(Chị Q có đơn xin xét xử vắng mặt; anh H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn xin ly hôn ngày 05/6/2020; Bản tự khai ngày 11/6/2020 và tại phiên tòa chị Đầu Thị Q nguyên đơn trình bày:

* Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hoàng Duy H kết hôn ngày 17/9/2002 do tự nguyện, có đăng ký tại UBND xã N, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống hạnh phúc được khoảng 3 - 4 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, anh H bị bắt và phải thi hành án. Vợ chồng đã ly thân 15 năm nay. Hiện anh H đang thi hành án tại phân trại số *, Trại giam T- Địa chỉ: huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Nay chị xác tình cảm vợ chồng không còn, chị xin được ly hôn với anh Hoàng Duy H.

* Về con chung: Chị và anh Hoàng Duy H có 01 con chung là Hoàng Duy Đ, sinh ngày 12/3/2003. Ly hôn chị có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

* Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 19/6/2020 anh Hoàng Duy H bị đơn trình bày:

* Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Đầu Thị Q kết hôn vào tháng 9/2002, do tự nguyện và có đăng ký kết hôn, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau được 4 năm thì chị Q bỏ nhà đi theo người khác. Chị Q xin ly hôn, anh đồng ý.

* Về con chung: Anh và chị Đầu Thị Q có 01 con chung là Hoàng Duy Đ, sinh ngày 12/3/2003. Ly hôn anh có nguyện vọng tiếp tục nuôi con vì anh và gia đình anh nuôi cháu từ nhỏ, chị Q bỏ đi từ tháng 3/2007 lúc đó con anh mới được 4 năm tuổi, chị Q không cấp dưỡng, anh cũng không yêu cầu chị Q phải cấp dưỡng nuôi con.

* Về tài sản: Anh và chị Q không có tài sản chung, tài sản riêng và không vay nợ ai nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đối với bị đơn Tòa án đã gửi đầy đủ các tài liệu tố tụng cho anh H và anh H đã có ý kiến về việc chị Q xin ly hôn. Tại phiên tòa ngày 17/8/2020 do anh H vắng mặt nên Tòa án đã căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa phiên tòa thứ nhất, tại phiên tòa ngày 17/8/2020 anh Hùng được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Hoàng Duy H là đúng quy định.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Đầu Thị Q xin ly hôn anh Hoàng Duy H đồng ý nên đề nghị HĐXX xử cho chị Q được ly hôn anh H.

+ Về con chung: Chị Q, anh H có 01 con chung là Hoàng Duy Đ, sinh ngày 12/3/2003. Ly hôn chị Q, anh H đều có nguyện vọng nuôi con và không bên nào yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hiện con đang ở cùng gia đình anh H nhưng theo quy định của pháp luật thì con được giao trực tiếp cho bố, mẹ nuôi dưỡng, giáo dục, hiện anh H đang thi hành án không thể trực tiếp nuôi con được nên cần giao con cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Khi anh H chấp hành xong án mà con chưa đủ 18 tuổi anh H có quyền làm đơn thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định.

+ Về tài sản: Chị Q, anh H không đề nghị Tòa án giải quyết.

+ Về án phí: Chị Đầu Thị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét toàn bộ các tài liệu chứng cứ và ý kiến của các đương sự tại lời khai, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Hoàng Duy H là bị đơn có hộ khẩu thường trú tại xã N, huyện Đ, tỉnh Thái Bình nên căn cứ vào các Điều 28; 35; 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân huyện Đông Hưng giải quyết là đúng pháp luật.

Tại phiên tòa ngày 17/8/2020 anh Hoàng Duy H đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng không có đơn xin xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX hoãn phiên tòa lần thứ nhất. Tại phiên tòa ngày 01/9/2020 anh Hoàng Duy Hùng vắng mặt nên HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Hoàng Duy H.

Ngày 17/8/2020, chị Đầu Thị Q có đơn đề nghị xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với chị Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh H kết hôn ngày 17/9/2002 do tự nguyện, có đăng ký tại UBND xã N, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, anh H bị bắt và phải thi hành án phạt tù nên vợ chồng đã ly thân 15 năm nay. Hiện anh H đang thi hành án tại phân trại số *, Trại giam T- Địa chỉ: huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Chị Q xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Q xin được ly hôn anh H đồng ý.

[2.1] Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa chị Q và anh H ngày 28/7/2020, UBND xã N cung cấp như sau: Chị Q, anh H có đăng ký kết hôn tại UBND xã N ngày 17/9/2002. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh H ở thôn B, xã N. Trong cuộc sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do anh H nghiện ma túy, hiện anh H đang chấp hành án phạt tù. Nay chị Q xin ly hôn anh H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị Q, anh H có 01 con chung là Hoàng Duy Đ, sinh ngày 12/3/2003.

[2.2] Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành phân tích, giải thích cho chị Q hiểu và thông cảm, chờ anh Hùng chấp hành xong hình phạt tù để vợ chồng có cơ hội trao đổi chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống trở về đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên chị Q vẫn cương quyết xin ly hôn, vì xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn nên xét thấy tình cảm giữa chị Q, anh H không còn, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị Q xử cho chị Q được ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng tại phiên tòa.

[3] Về con chung: Chị Q, anh H có 01 con chung là Hoàng Duy Đ, sinh ngày 12/3/2003. Ly hôn chị Q, anh H đều có nguyện vọng nuôi con và không bên nào yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hiện con đang ở cùng gia đình anh H nhưng theo quy định của pháp luật thì con phải được giao trực tiếp cho bố, mẹ nuôi dưỡng, giáo dục, hiện anh H đang chấp hành án phạt tù tại phân trại số *, Trại giam T- Địa chỉ: huyện N, tỉnh Thanh Hóa không thể trực tiếp nuôi con được nên cần giao con cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Khi anh H chấp hành xong án phạt tù mà con chưa đủ 18 tuổi thì anh H có quyền làm đơn thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản: Chị Q, anh H không đề nghị Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đầu Thị Q được ly hôn anh Hoàng Duy H.

2. Về con chung: Xử giao cho chị Đầu Thị Q trực tiếp nuôi con chung là Hoàng Duy Đ, sinh ngày 12/3/2003 và chấp nhận việc chị Q không yêu cầu anh Hùng phải cấp dưỡng nuôi con.

Việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng được đặt ra khi một trong các bên có đơn yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Chị Q, anh H không đề nghị Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đầu Thị Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị Q đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008443 ngày 11/6/2020 thành tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Chị Đầu Thị Q, anh Hoàng Duy H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 01/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:43/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về