Bản án 43/2020/DS-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 43/2020/DS-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Trong ngày 27 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 20/2020/TLST-DS, ngày 21/02/2020 về việc “Tranh chấp nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-DS, ngày 30 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hà Thị T - sinh năm 1958 (có mặt); Địa chỉ: ấp A, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Ông Trần Văn U – sinh năm 1974; Bà Phạm Thị N - sinh năm 1973 (đều vắng mặt).

Cùng địa chỉ: ấp A, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/02/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Hà Thị T trình bày:

Bà bắt đầu tham gia chơi hụi của bà Phạm Thị N và ông Trần Văn U từ năm 2012, tất cả các dây hụi trước đều đã mãn và hốt xong. Vào năm 2016, bà tiếp tục tham gia chơi 16 chân hụi trong 10 dây hụi do vợ chồng bà Phạm Thị N và ông Trần Văn U làm chủ, các chân hụi này đều chưa mãn, bà chưa hốt hụi, nhưng vợ chồng bà N và ông U tuyên bố ngưng hụi, cụ thể gồm các dây hụi sau:

- Dây hụi 1.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 05/02/2017 al, có 34 chân, bà chơi 02 chân, bà đã đóng 22 lần được số tiền 44.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 1.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 09/4/2017 al, có 28 chân, bà chơi 01 chân, bà đã đóng 19 lần được số tiền 19.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 1.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 10/4/2017 al, có 28 chân, bà chơi 02 chân, bà đã đóng 19 lần được số tiền 38.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 1.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 20/6/2017 al, có 32 chân, bà chơi 01 chân, bà đã đóng 17 lần được số tiền 17.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 1.000.000đ/tháng: Áp hụi ngày 30/8/2017 al, có 30 chân, bà chơi 01 chân, bà đã đóng 16 lần được số tiền 16.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 500.000đ/tháng: Áp hụi ngày 24/9/2016 al, có 32 chân, bà chơi 02 chân, bà đã đóng 27 lần được số tiền 27.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 500.000đ/tháng: Áp hụi ngày 05/02/2017 al, có 34 chân, bà chơi 03 chân, bà đã đóng 22 lần được số tiền 33.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 500.000đ/tháng: Áp hụi ngày 10/4/2017 al, có 35 chân, bà chơi 02 chân, bà đã đóng 19 lần được số tiền 19.000.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 500.000đ/tháng: Áp hụi ngày 20/6/2017 al, có 32 chân, bà chơi 01 chân, bà đã đóng 17 lần được số tiền 8.500.000đ (tính theo hụi chết).

- Dây hụi 500.000đ/tháng: Áp hụi ngày 30/8/2017 al, có 30 chân, bà chơi 01 chân, bà đã đóng 16 lần được số tiền 8.000.000đ (tính theo hụi chết).

Tổng cộng số tiền kê theo 16 chân hụi trên là 229.500.000đ, nhưng trong 16 chân hụi trên, có 05 chân hụi là hụi do bà mua của vợ chồng bà N (04 chân hụi 500.000đ và 01 chân hụi 1.000.000đ) nên tổng cộng số tiền đúng ra phải là 262.000.000đ nhưng khi bà N tuyên bố ngưng hụi, bà có đến gặp bà N để chốt nợ thì bà N tự viết biên nhận cho bà là vợ chồng bà N còn nợ bà số tiền 236.000.000đ. Về đến nhà bà mới phát hiện ra thiếu số tiền của 05 chân hụi mua và chênh lệch số tiền là 26.000.000đ, bà có đến gặp bà N yêu cầu viết lại biên nhận thì bà N không đồng ý nên bà thống nhất số tiền theo biên nhận là 236.000.000đ. Đối với số tiền nợ hụi trên, bà đã nhiều lần đến yêu cầu vợ chồng bà Nợ, ông U trả nợ nhưng ông U, bà N chỉ cam kết và hứa hẹn nhưng không thực hiện.

Tại phiên tòa, bà Hà Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Phạm Thị N và ông Trần Văn U phải trả cho bà số tiền nợ hụi là 236.000.000đ (hai trăm ba mươi sáu triệu đồng), ngoài ra không yêu cầu gì thêm.

Đối với yêu cầu khởi kiện nêu trên của nguyên đơn, tại Biên bản ghi lời khai ngày 08/5/2020, bị đơn bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U trình bày:

Bà N, ông U thừa nhận: Bà T có tham gia chơi hụi do vợ chồng ông bà làm chủ. Các chân hụi, dây hụi và số lần đóng hụi như bà T kê ra là đúng. Ông bà cũng thừa nhận số tiền hụi hiện nay còn nợ bà T là 236.000.000đ (hai trăm ba mươi sáu triệu đồng). Nhưng ông bà cho rằng, hiện nay hụi bể, vợ chồng ông bà nợ nhiều người nên không có khả năng trả nợ một lần theo yêu cầu của bà T nên xin bà T giảm số tiền trên còn lại là 200.000.000đ và ông bà xin trả dần mỗi năm là 40.000.000đ, cứ 06 tháng trả 20.000.000đ cho đến khi hết nợ.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp nợ hụi” là đúng quy định và thuộc thẩm quyền giải quyết. Từ khi thụ lý đến khi xét xử, Thẩm phán đã thực hiện các bước tiến hành tố tụng đúng theo quy định, tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Riêng đối với bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 471, 688 Bộ luật dân sự 2015, Điều 18, Điều 23 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị T buộc bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U phải có nghĩa vụ trả cho bà Hà Thị T số tiền nợ hụi là 236.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên bà Hà Thị T khởi kiện bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U về việc “Tranh chấp nợ hụi” được Tòa án thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 26 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U với tư cách là bị đơn vắng mặt lần thứ 2 nhưng không có lý do. Xét việc vắng mặt này không gây trở ngại khi xét xử vụ án, căn cứ Điều 227 BLTTDS vụ án vẫn được xét xử theo quy định.

[2] Về nội dung: Thời gian vào năm 2016, giữa bà Hà Thị T và bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U có thỏa thuận góp hụi với nhau, vợ chồng bà N, ông U làm chủ hụi, bà T là thành viên trong các dây hụi: Dây hụi 1.000.000đ/tháng, hụi áp ngày 05/02/2017 al; Dây hụi 1.000.000đ/tháng: hụi áp ngày 09/4/2017 al; Dây hụi 1.000.000đ/tháng: hụi áp ngày 10/4/2017 al; Dây hụi 1.000.000đ/tháng: hụi áp ngày 20/6/2017 al; Dây hụi 1.000.000đ/tháng: hụi áp ngày 30/8/2017 al; Dây hụi 500.000đ/tháng: hụi áp ngày 24/9/2016 al; Dây hụi 500.000đ/tháng: hụi áp ngày 05/02/2017 al; Dây hụi 500.000đ/tháng: hụi áp ngày 10/4/2017 al; Dây hụi 500.000đ/tháng: hụi áp ngày 20/6/2017 al và dây hụi 500.000đ/tháng: hụi áp ngày 30/8/2017 al. Quá trình chơi hụi, bà T thực hiện đầy đủ nghĩa vụ góp hụi của 16 chân hụi trên cho đến khi vợ chồng bà N ngưng xổ hụi. Tuy nhiên, từ khi ngưng xổ hụi đến nay, vợ chồng bà N vẫn chưa giao tiền hụi đầy đủ cho bà T nên bà T khởi kiện đòi lại số tiền nợ hụi 236.000.000đ. Xét về nội dung và hình thức hợp đồng góp hụi như trên giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp theo Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015 nên phát sinh hiệu lực thi hành.

[3] Xét yêu cầu của bà T buộc vợ chồng bà N, ông U phải trả số tiền nợ hụi là 236.000.000đ. Quá trình giải quyết vụ án, bà N, ông U đều thừa nhận số tiền hụi còn nợ lại bà T là 236.000.000đ nhưng hẹn trả dần mỗi năm 40.000.000đ, 06 tháng trả 20.000.000đ cho đến khi hết nợ. HĐXX thấy rằng, bà N, ông U không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao tiền hụi theo đúng cam kết là đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 18 Nghị định 19/2009/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và yêu cầu xin trả nợ dần của ông bà cũng không được bà T đồng ý cho nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T và buộc bà N, ông U có trách nhiệm thanh toán số nợ hụi này cho bà T là phù hợp.

[4] Về án phí: Bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 11.800.000đ (236.000.000đ x 5%) do ông bà có lỗi trong vụ kiện này.

Bà Hà Thị T được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 5.900.000đ (năm triệu, chín trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008782, ngày 21/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 471 và Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 18, Điều 23 Nghị định 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị T.

Buộc bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U có nghĩa vụ trả cho bà Hà Thị T số tiền 236.000.000đ (hai trăm ba mươi sáu triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà T cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà N, ông U còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị N, ông Trần Văn U phải chịu án phí dân sự có giá ngạch là 11.800.000đ (mười một triệu, tám trăm nghìn đồng).

Bà Hà Thị T được nhận lại số tiền 5.900.000đ (năm triệu, chín trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008782, ngày 21/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang.

3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 27/8/2020.

Đương sự vắng mặt tại phiên thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các Điều 7, 7a, 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2020/DS-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:43/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về