Bản án 43/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SL

BẢN ÁN 43/2019/HSST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

LVH, sinh ngày 02/12/1995, tại NG, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản HN, xã NG, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kháng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn K và con bà Lò Thị B; vợ Lò Thị L, có hai con lớn sinh 2014, nhỏ sinh 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/02/2019; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan, Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý nhà nước, tỉnh SL. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: LTS, sinh 1990, Địa chỉ: Bản Đ, xã CL, huyện ML, tỉnh SL. Vắng mặt.

- Người làm chứng: LP, sinh 1962. Địa chỉ: Bản Đ, xã CL, huyện ML, tỉnh SL. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo LVH bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 19 giờ 00 phút ngày 14/02/2019, tại Bản HN, xã NG, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang LVH, sinh ngày 02/12/1995, ở bản HN, xã NG, huyện ML, tỉnh SL đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ:

01 gói bằng giấy ni lon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, do LVH lấy trong túi quần bên phải tự giác giao nộp, LVH khai là Heroine cất giữ nhằm mục đích để sử dụng;

01 xe máy nhãn hiệu Wave, màu đỏ đen, BKS 26B1-23.911 thu giữ của LP (do Phòng đèo LVH).

Ngày 15/02/2019 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả: 01 gói bằng giấy ni lon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, do LVH lấy trong túi quần bên phải tự giác giao nộp có khối lượng 0,23 gam, lấy 0,06 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu H. Cơ quan Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 468/KLGĐ ngày 17/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL. Kết luận: Mẫu ký hiệu H là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng giám định là 0,06 gam. Tổng khối lượng là 0,23 gam Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo LVH, người bào chữa không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Quá trình điều tra LVH khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 14/02/2019 LVH ăn cơm uống rượu ở nhà Lò Văn Nam cùng bản xong, LVH nhờ LVH trở đến bản Đ, xã CL, huyện ML, tỉnh SL để chơi, khi đến nơi LVH đi đến nhà LP, sinh 1962. Địa chỉ: Bản Đ, xã CL, huyện ML, tỉnh SL và hỏi mua được 01 gói Heroine để sử dụng, với giá 350.000, đồng sau khi mua được ma túy LVH không thấy LVH đâu, LVH nhờ LP trở về. LP trở LVH đến bản HN, xã NG, huyện ML, tỉnh SL, thì Công an phát hiện và bắt quả tang cùng vật chứng.

Về nguồn gốc ma túy LVH khai mua của LP với số tiền 350.000, đồng. Quá trình điều tra, xác minh, đối chất không có căn cứ về việc LP đã bán ma túy cho LVH, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVH.

Đối với LVH có trở LVH không biết việc LVH đi mua Heroine.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo LVH đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bản cáo trạng số: 309/CT-VKSML ngày 20 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo LVH về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo LVH phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt LVH từ 18 tháng đến 24 tháng tù;

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do không có tài sản.

Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ; 0,17 gam Heroine.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Wave, màu đỏ đen, BKS 26B1-23.911 thu giữ của LP, được xác định là của LTS, sinh 1990, Địa chỉ: Bản Đ, xã CL, huyện ML, tỉnh SL, LP mượn đi chở LVH. Do không liên quan đến vụ án, cơ quan Công an đã trả lại cho chị LTS.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo, người bào chữa nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu ý kiến bào chữa đưa ra các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà bị cáo LVH thừa nhận: Hồi 19 giờ 00 phút ngày 14/02/2019 LVH đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Heroine khối lượng là 0,23 gam, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo LVH đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo có nhân thân không tốt là đối tượng nghiện ma túy. Tại phiên toà bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3]. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ; 0,17 gam Heroine.

Về nguồn gốc ma túy LVH khai mua của LP với số tiền 350.000, đồng. Quá trình điều tra, xác minh, đối chất không có căn cứ về việc LP đã bán ma túy cho LVH, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVH. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.

Đối với LVH có trở LVH không biết việc LVH đi mua Heroine, nên không vi phạm pháp luật.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Wave, màu đỏ đen, BKS 26B1-23.911 thu giữ của LP, được xác định là của LTS, sinh 1990, Địa chỉ: Bản Đ, xã CL, huyện ML, tỉnh SL, LP mượn đi chở LVH. Do không liên quan đến vụ án, cơ quan Công an đã trả lại cho chị LTS. Chị LTS không có yêu cầu gì khác, cần chấp nhận.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo LVH phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo LVH 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 15/02/2019.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ; 0,17 gam Heroine (đã được niêm phong). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo LVH phải chịu 200.000, đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 25/6/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về