Bản án 43/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 43/2019/HSST NGÀY 25/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/3/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 50/2019/TLST-HS ngày 11/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2019/QĐXXST-HS ngày 14/3/2019 đối với bị cáo:

Trịnh Viết D, sinh năm: 1985; HKTT: Thôn X, xã Y, huyện Z, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Văn hóa: 9/12; con ông: Trịnh Viết P; con bà: Phạm Thị Ng; gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 3.

Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 062 lập ngày 27/12/2018 của Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo có 01 tiền sự: Cai nghiện bắt buộc năm 2007, chấp hành xong năm 2009.

Bị cáo bị bắt ngày 24/12/2018, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội. (Có mặt)

Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Văn Q, Sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn X, xã Y, huyện Z, thành phố Hà Nội. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 19 giờ 30 phút ngày 24/12/2018, tổ công tác công an phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực đối diện nhà số 49 phố Đức Giang, phường Đức Giang, quận Long Biên, thành phố Hà Nội đã phát hiện bắt quả tang Trịnh Viết D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật tạm giữ của D gồm: 01 gói giấy màu hồng bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 túi nilong bên trong có 01 xi lanh tiêm và 01 ống Novocain chưa qua sử dụng, 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda WaveS màu trắng, BKS 29B1-415.92.

Bản kết luận giám định số 9748 ngày 30/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự -Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu hồng là ma túy loại heroin, khối lượng: 0,194 gam.

Tại cơ quan cảnh sát điêu tra, Trịnh Viết D khai nhận: Khoảng 19giờ ngày 24/12/2018, D điều khiển xe máy đi đến khu vực đầu Cầu Đuống để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, D gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy heroine với giá 100.000đồng. D cất gói ma túy mua được vào trong túi áo khoác đang mặc. Trước đó, D đã mua 01 chiếc xilanh tiêm, 01 lọ nước cất ở hiệu thuốc ven đường cho vào trong túi áo, mục đích để sử dụng ma túy. Sau đó, D phóng xe máy đi về hướng phố Đức Giang, Long Biên, Hà Nội để tìm nơi sử dụng ma túy. Trên đường đi, D gặp ngươi quen là anh Đỗ Đoan C, sinh năm 1976, trú tại tổ 18 phường Đức Giang, quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Anh C xin đi nhờ xe về nhà, D đồng ý. Anh C không biết D tàng trữ ma túy trong người. Khi cả hai đi đến khu vực đối diện nhà số 49 phố Đức Giang, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, D đi chậm để dừng xe cho anh C xuống đi bộ về nhà. Lúc này, D bị cơ quan công an kiểm tra, sợ quá nên D đã thò tay vào túi áo khoác lấy gói ma túy và 01 túi ni lông, bên trong có 01 xi lanh tiêm và 01 ống Novocain thả xuống đất nhưng bị công an phát hiện. Sau đó, D tự nguyện nhặt gói ma túy lên giao nộp cho cơ quan công an. Tại chỗ, D khai nhận gói giấy màu hồng đó là gói ma túy heroine D vừa đi mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong tang vật, đưa D, C về trụ sở để làm rõ.

Lời khai của Trịnh Viết D phù hợp với lời khai của anh Đỗ Đoan C, phù hợp với lời khai của nhân chứng có mặt tại hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản cáo trạng số: 57/CT-VKS ngày 04/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Trịnh Viết D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa như sau: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thấy rằng: Hành vi của bị cáo Trịnh Viết D đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Về nhân thân, bị cáo có 01 tiền sự đi cai nghiện bắt buộc đã chấp hành xong. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Trịnh Viết D mức án từ 15 đến 20 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị cho tịch thu tiêu hủy 0,194 gam heroine, 01 xi lanh tiêm, 01 ống Novocain thu giữ của bị cáo.

Nói lời sau cùng bị cáo nhận thấy việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và người tham gia tố tụng khác đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu; bản kết luận giám định; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 24/12/2018, tại khu vực đối diện nhà số 49 phố Đức Giang, phường Đức Giang, quận Long Biên, thành Hà Nội, Trịnh Viết D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,194 gam ma túy loại heroine mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, thành phố Hà Nội phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo Trịnh Viết D có đầy đủ dấu hiệu của tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra.

Về nhân thân: bị cáo có 01 tiền sự, tuy đã được xóa nhưng Hội đồng xét xử xác định bị cáo có nhân thân xấu. Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về xử lý vật chứng: Cho tịch thu tiêu hủy 0,194 gam heroine, 01 xi lanh tiêm, 01 ống Novocain thu giữ của bị cáo.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave S màu trắng BKS: 29B1- 415.92 tạm giữ của D, D khai mượn của anh Đào Văn Q để đi có việc. Việc D sử dụng chiếc xe máy trên đi mua ma túy anh Q không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe trên cho anh Đào Văn Q là có căn cứ. Anh Q đã nhận lại được tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với người đàn ông đã bán trái phép ma túy cho Trịnh Viết D, do D khai không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Vì vậy, cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với anh Đỗ Đoan C là người đi nhờ xe máy của D, không liên quan đến hành vi phạm tội của D nên cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý là có căn cứ.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trịnh Viết D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Trịnh Viết D 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/12/2018.

2.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 0,194 gam Heroine (Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 21/01/2019) và 01 xi lanh tiêm, 01 ống Novocain (Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên ngày 06/3/2019).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về