Bản án 43/2019/HS-ST ngày 02/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 43/2019/HS-ST NGÀY 02/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân HUYỆN H,tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2019/HSST ngày 04/07/2019 theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXXST-HS ngày 18/7/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Đình Q, sinh ngày 17 tháng 11 năm 1990, nơi sinh tại Hà Tĩnh; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Tổ 10, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp làm rẫy; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1960 và bà Mai Thị H, sinh năm 1968; bị cáo có 04 chị em, lớn nhất, sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1994, bị cáo có vợ tên Trần Thị A, sinh năm 1993, bị cáo có 03 con con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất, sinh năm 2019; tiền án (không); tiền sự (không).

Về nhân thân: Ngày 18/12/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước tuyên phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 31 tháng về tội ‘ Cướp giật tài sản”, ngày 18/7/2010 Q đã chấp hành xong. Ngày 28/11/2016 bị công an huyện H,tỉnh Bình Phước xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái pháp chất ma túy, Q đã chấp hành xong. Ngày 24/7/2017 bị công an huyện H,tỉnh Bình Phước xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 09/2/2019 có hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy bị bắt quả tang đến ngày 13/2/2019 bị khởi tố và bắt tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 2000 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp H, xã T, huyện H,tỉnh Bình Phước

- Ông Phạm Mạnh D, sinh năm 1959 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp H, xã T, huyện H,tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bản cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 04 tháng 07 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân HUYỆN H đã truy tố Nguyễn Đình Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Nguyễn Đình Q sử dụng ma túy từ năm 2012, nguồn ma túy do Q mua của một số đối tượng không rõ lai lịch để sử dụng. Do đã liên lạc từ trước nên khoảng 18 giờ ngày 08/02/2019 Nguyễn Đình Q hẹn gặp người phụ nữ tên X (không rõ nhân thân) tại quán cà phê “360” thuộc ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước. Q đưa cho X 4.000.000đ để mua 02 gói ma túy gồm 01 gói lớn có miệng kéo dính và 01 gói nhỏ được hàn kín. Sau khi mua được ma túy, Q cất giấu vào trong túi xách màu nâu hiệu adidas mang về nhà. Đến khoảng 10 giờ ngày 09/2/2019 Q gọi điện cho Nguyễn Ngọc Q trú tại tổ 9, ấp H, xã T, huyện H,tỉnh Bình Phước đến nhà chở Q đi uống cà phê thì Q1 đồng ý. Q1 một mình điều khiển xe mô tô hiệu Winner biển số 93C1- 15833 đến nhà Q. Lúc này Q đưa túi xách màu nâu bên trong chứa 02 gói ma túy và 02 nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy) cho Q1 cầm hộ nhưng không nói cho Q1 biết bên trong có ma túy, rồi điều khiển xe mô tô trên chở Q1 đến quán cà phê 360 thuộc ấp H, xã T uống nước. Khi vừa vào trong chòi cuối cùng của quán 360 thì Q nhờ Q1 đi mua cuộn băng keo đên để Q cuốn bộ sóc đĩa, Q1 điều khiển xe mô tô đi mua băng keo. Lúc này Q lấy 02 gói ma túy và 02 nỏ thủy tinh trong túi xách ra, lấy một ít ma túy trong gói ma túy bỏ vào trong 02 nỏ thủy tinh, dùng quẹt gas đốt tan chảy ma túy trong 2 nỏ thủy tinh. Sau đó hàn kín gói ma túy nhỏ lại rồi cất giấu 02 gói ma túy trên vào 02 khẩu trang ý tế và 01ống nỏ thủy tinh chứa ma túy vào túi xách màu nâu. Còn 01 nỏ thủy tinh chứa ma túy để bên ngoài, chờ Q1 về cả hai cùng sử dụng ma túy (Q không lấy tiền của Q1). Khi sử dụng ma túy xong Q cất nỏ thủy tinh vào trong túi xách màu nâu chứa ma túy của Q rồi đưa cho Q1 đeo bên người (Q1 không biết có ma túy bên trong). Q điều khiển xe mô tô biển số ((93C1- 158.33 chở Q1 đi chơi. Khi cả hai vừa đi đến khu vực gần chợ Tân Hưng thuộc tổ 11, ấp H, xã T, huyện H thì bị lực lượng công an HUYỆN H phát hiện bắt quả tang Q cất giấu 02 gói ma túy và 01 nỏ thủy tinh chứa ma túy bên trong để trong túi xách màu nâu. Q1 trình điều tra Q xác định số ma túy trên là ma túy tổng hợp, việc Q mua về với mục đích tàng trữ để sử dụng và cất giấu số ma túy nêu trên Nguyễn Ngọc Q hoàn toàn không biết.

Theo biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 09/02/2019, lực lượng Công an huyện H thu giữ được: 02 gói nylon trong suốt hàn kín đựng chất dạng tinh thể trắng bên trong được niêm phong bằng bì thư ký hiệu M1; 01 đoạn ống thủy tinh trong suốt, trong nỏ đựng chất dạng tinh thể màu nâu được niêm phong bằng bì thư ký hiệu M2; 01 xe mô tô biển số 93C1- 158.33 có số máy KC26E1114282; số khung RLHKC2609GY081255; số tiền 7.000.000đ (bảy triệu đồng); 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng; 01 túi xách màu nâu hiệu Adidas; 01 quẹt gas màu xanh; 01 cái kéo kim loại; 01 cuộn băng keo màu đen; 01 cái khăn màu trắng viền xanh; 01 ống nỏ thủy tinh gắn trên nắp chai nhựa màu đỏ; 01 khẩu trang ý tế màu xám; 01 khẩu trang ý tế màu xanh; 01 bộ dụng cụ xóc đĩa.

Bản kết luận giám định số 53/2019/GĐ-MT ngày 13/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:

Tinh thể màu trắng chứa trong 02 gói nylon ký kiệu M1 được niêm phong gửi giám định là ma túy có trọng lượng là 10,3745 gam là Methamphetamine.

Tinh thể màu nâu ký kiệu M2 được niêm phong gửi giám định là ma túy có trọng lượng là 0,2142 gam là Methamphetamine Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 04 tháng 07 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo khai nhận tội. Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Đình Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại cơ quan điều tra, bị cáo khai hiện đang là người đang nuôi 03 người con nhỏ và xin giảm nhẹ hình hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau nên vẫn giữ nguyên Q định truy tố như bản cáo trạng, căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Q mức án từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (sáu) năm tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hvà Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể như sau: khoảng 18 giờ ngày 08/02/2019 Nguyễn Đình Q hẹn gặp người phụ nữ tên X (không rõ nhân thân) tại quán cà phê “360” thuộc ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước để mua 02 gói ma túy gồm 01 gói lớn có miệng kéo dính và 01 gói nhỏ được hàn kín với giá 4.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Q cất giấu vào trong túi xách màu nâu mang về nhà. Đến khoảng 10 giờ ngày 09/2/2019 Q gọi điện cho Nguyễn Ngọc Q đến quán 360 thuộc ấp H, xã Tđể cùng sử dụng ma túy. Khi sử dụng ma túy xong Q cất nỏ thủy tinh vào trong túi xách màu nâu chứa ma túy của Q rồi đưa cho Q1 đeo bên người (Q1 không biết có ma túy bên trong). Q điều khiển xe mô tô biển số đăng ký 93C1-158.33 chở Q1 khi cả hai vừa đi đến khu vực gần chợ Tân Hưng thuộc tổ 11, ấp H, xã T, HUYỆN H thì bị lực lượng công an HUYỆN Hphát hiện bắt quả tang thu giữ Q cất giấu 02 gói ma túy và 01 nỏ thủy tinh chứa ma túy bên trong để trong túi xách màu nâu.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có sở xác định: Do nghiện ma túy và quen biết với một người tên X (không rõ nhân thân lai lịch), Q đã mua ma túy của X về sử dụng, Q mua của X hai gói ma túy với giá 4.000.000 đồng, Q mang ma túy về sử dụng một ít, còn lại Q mang cất giấu trong túi xách màu nâu mang theo để sử dụng, đến 11 giờ 35 phút ngày 09 tháng 2 năm 2019 tại khu vực gần chợ Tân Hưng thuộc tổ 11, ấp H, xã T, HUYỆN Hthì bị kiểm tra, bắt giữ. Ma túy thu giữ của Nguyễn Đình Q là chất Methamphetamine có trọng lượng là 10,5887gam. Viện kiểm sát nhân dân HUYỆN H truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy; bị cáo là người thành niên có đủ năng lực nhận thức về tác hại của ma túy như ma túy gây tổn hại cho sức khỏe, tinh thần của người sử dụng, là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương; bị cáo đã bị xử phạt hành chính hai lần về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để răn đe bị cáo, phòng ngừa chung trong xã hội cũng như giúp bị cáo cai nghiện trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra năm năn hối cải nên được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Đối với đối tượng tên X là người bán ma túy cho Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên không khởi tố, điều tra; Viện kiểm sát nhân dân huyện H không truy tố nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Số lượng ma tuý thu giữ của Nguyễn Đình Q sau khi tiến hành giám định chất ma túy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy số ma tùy còn lại 9,0386 gam Methamphetamine.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Winner biển số 93C1-15833. Đây là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Ngọc Sinh (cha đẻ Q1) và Q1 mượn xe để đi chơi cùng Q và Q1 không biết Q1 tàng trữ trái phép chất ma túy nên không liên quan đến vụ án cơ quan công an huyện Hờn Quản đã trả lại cho ông Sinh nên không xem xét.

- 01 (một) điện thoại di động Iphone màu trắng vàng là tài sản của Trần Thị A(Vợ Q ) cho Q mượn để làm phương tiện liên lạc không liên quan đến vụ án và số tiền 7.000.000đ là tài sản chung của Q và vợ là Trần Thị Avà vợ Q đưa cho Q nhằm mục đích mua đồ sinh hoạt gia đình không liên quan đến vụ án nên công an huyện H đã trả lại điện thoại Iphone và số tiền 7.000.000đ nên không xem xét.

- Đối với các vệt chứng khác gồm 01 túi xách màu nâu hiệu Adidas; 01 quẹt gas màu xanh; 01 kéo kim loại; 01 cuộn băng keo màu đen; 01 khăn màu trắng viền xanh; 01 ống nỏ thủy tinh gắn trên nắp chai nhựa màu đỏ; 01 khẩu trang y tế màu xám; 01 khẩu trang ý tế màu xanh và 01 bộ dụng cụ xóc đĩa không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

[4] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố: Nguyễn Đình Q phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm điểm g khoản 2 Điều 249, các điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sữa đổi, bổ sung năm 2017:

- Xử phạt Nguyễn Đình Q 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/02/2019. Q định tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[3] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

-Tuyên tịch thu 02 bao thư niêm phong chứa số lượng ma tuý sau khi tiến hành giám định chất ma túy còn lại 9,0386 gam Methamphetamine, ký hiệu 53M1, 53M2 ngày 13/02/2019 có dấu của phòng kỹ thuật Công an tỉnh Bình Phước (có chữ ký của Điều tra viên Trần Văn Thanh và giám định viên Nguyễn Văn Hải); 01 túi xách màu nâu hiệu Adidas; 01 quẹt gas màu xanh; 01 kéo kim loại; 01 cuộn băng keo màu đen; 01 khăn màu trắng viền xanh; 01 ống nỏ thủy tinh gắn trên nắp chai nhựa màu đỏ; 01 khẩu trang y tế màu xám; 01 khẩu trang ý tế màu xanh và 01 bộ dụng cụ xóc đĩa.

Các vật chứng đang do Chi cục thi hành án huyện Hơn quản quản lý theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 22/7/2019.

[4] Về án phí:

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

- Buộc Nguyễn Đình Q phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HS-ST ngày 02/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về