Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 26/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 43/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 48/2018/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 2 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXX-ST ngày 24 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Vũ N, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn Bình Tiến, xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước

- Bị đơn: Chị Vũ Thị O, sinh năm 1992

Địa chỉ: Thôn Bình Tiến, xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước

(Nguyên đơn có mặt; bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19/2/2019 và trong quá trình xét xử nguyên đơn anh Nguyễn Vũ N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh N và chị O tự nguyện tìm hiểu và chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước ngày 08/4/2011. Quá trình chung sống hạnh phúc nhưng tới năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, đời sống vợ chồng ngày càng trầm trọng và hiện chị O đã bỏ đi khỏi địa phương từ năm 2018 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh N yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với chị O để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có 01 người con chung là cháu Nguyễn Chí K; sinh ngày 19/6/2012. Sau khi ly hôn giao con chung cho chị O nuôi dưỡng và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án, nguyên đơn anh N cung cấp các tài liệu, chứng cứ gồm: Bản gốc đăng ký kết hôn của UBND xã N ngày 08/4/2011; bản sao chứng minh nhân dân, bản sao hộ khẩu, 01 bản sao giấy khai sinh. Ngoài ra, anh N không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì.

Bị đơn chị Vũ Thị O đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên không có lời khai.

Tại phiên tòa. Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng có quan điểm:

Đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt chị O vì đã được thông báo hợp lệ.

Đi với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh N.

Về con chung giao cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng các đương sự không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

Về nợ chung, tài sản chung không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

Các tài liệu, chứng cứ:

Nguyên đơn nộp:

- Giấy khai sinh; sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân - Giấy kết hôn (bản gốc)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Phần thủ tục tố tụng:

Theo đơn khởi kiện của anh Nguyễn Vũ N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Vũ Thị O. Hiện nay bị đơn có hộ khẩu thường trú tại huyện B, tỉnh Bình Phước. Hội đồng xét xử thấy tranh chấp giữa Nguyên đơn và Bị đơn thuộc lĩnh vực hôn nhân gia đình. Căn cứ vào khoản 11 Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Bù Đăng.

Đi với việc giải quyết vắng mặt của chị O. Hội đồng xét xử thấy rằng quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên chị O vẫn vắng mặt và không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị O

[2] Xét yêu cầu khởi kiện:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Vũ N và chị Vũ Thị O tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước. Điều này phù hợp với bản gốc giấy chứng nhận kết hôn số 10 ngày 08/4/2011 đã được anh N giao nộp hợp lệ. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh N và chị O là hợp pháp.

Về mâu thuẫn gia đình: Theo lời khai của anh N trong quá trình mâu thuẫn anh và chị O có nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn phát sinh nhiều lần và thường xuyên bắt đầu từ năm 2018 đến nay, chị O không lo làm ăn, chăm sóc gia đình, hiện chị O đã bỏ đi khỏi địa phương từ năm 2018 cho đến nay, giữa hai bên không còn liên hệ gì với nhau. Như vậy, mâu thuẫn gia đình của anh chị là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận nguyện vọng muốn ly hôn của anh Ninh.

[2.2] Về con chung: Có 01 người con chung là Nguyễn Chí K sinh ngày 19/6/2012. Theo đơn khởi kiện cũng như lời trình bày của anh N tại phiên tòa, anh đề nghị giao cháu K cho chị O được trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy khi chị O đi khỏi địa phương thì đã đưa cháu K đi theo để chăm sóc nuôi dưỡng. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của anh N, tiếp tục giao cháu K cho chị O được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự buộc nguyên đơn anh N phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo luật định.

[5] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; Điều 55; Điều 81; Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Vũ N về việc ly hôn. Anh Nguyễn Vũ N được ly hôn với chị Vũ Thị O.

[2] Về con chung: Giao cháu Nguyễn Chí K, sinh ngày 19/6/2012 cho chị Vũ Thị O trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi;

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu toà án giải quyết

[4] Về án phí: Nguyên đơn anh N phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0009178 ngày 20/2/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

[5] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi đương sự cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 26/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về