Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH L 

BẢN ÁN 43/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ LY HÔN 

Ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1971.

Đa chỉ cư trú: số 55/9/9 đường H, Phường B, thành phố T, tỉnh L

Bị đơn: Ông Võ Văn V, sinh năm 1969.

Đa chỉ cư trú: số 55/9/9 đường H, Phường B, thành phố T, tỉnh L

(Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 21 tháng 9 năm 2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Ngọc L trình bày:

Bà và Ông Võ Văn V tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, chung sống với nhau từ năm 1996 đến năm 2001 có đăng ký kết hôn tại UBND phường C, thị xã T, (nay là thành phố T), tỉnh L. Vợ chồng chung sống đến năm 2010 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do mâu thuẫn về tình cảm và tiền bạc, ông V không chăm lo làm ăn, lại còn thường xuyên đánh đập bà. Bà và ông V đã ly thân từ đầu năm 2016. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông V.

Về con chung: bà và ông V có 01 con chung tên Võ Hoàng Thúy N, sinh ngày 22/01/1996 (đã trưởng thành).

Về tài sản chung và nợ chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị Ngọc L có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bà xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn Ông Võ Văn V đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết, tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông V không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, phiên hòa giải do Tòa án tổ chức, không có văn bản thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu ly hôn của bà L. Phiên tòa hôm nay, ông V cũng vắng mặt dù đã được tống đạt giấy báo hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Về ý kiến của Viện kiểm sát:

Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến phiên tòa xét xử vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Võ Văn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến tham gia phiên tòa. Bà Nguyễn Thị Ngọc L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định tại các Điều 227; Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa Bà Nguyễn Thị Ngọc L và Ông Võ Văn V là quan hệ hôn nhân hợp pháp, do bà L và ông V có mâu thuẫn không thể hàn gắn được, nhận thấy hôn nhân giữa bà L và ông V đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, quan hệ hôn nhân không thể kéo dài. Từ đó có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà L, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà L. Đương sự phải nộp án phí theo qui định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị Ngọc L nộp đơn yêu cầu xin ly hôn với Ông Võ Văn V có địa chỉ cư trú ở thành phố T, tỉnh L nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L.

Bà L và ông V xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2001 nên áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình (năm 2000) để giải quyết về nội dung theo quy định tại Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình (năm 2014).

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập ông V đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng ông V không chấp hành nên Tòa án xét xử vắng mặt đối với ông V là đúng theo quy định tại Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nên Hội đồng xét xử đã xét xử vắng mặt tất cả các được sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc L và Ông Võ Văn V tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường C, thị xã T, (nay là thành phố T), tỉnh L vào năm 2001 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà L xác định do vợ chồng xảy ra mâu thuẫn về tình cảm và tiền bạc, ông V có những lời lẽ xúc phạm, đe dọa bà, thậm chí rất nhiều lần đánh đập bà, làm cho bà cảm thấy rất áp lực trong cuộc sống. Xét thấy, cuộc sống vợ chồng giữa bà L và ông V không có tiếng nói chung, không có sự thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau. Ông V đã có yếu tố bạo lực gia đình. Ông V được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, được tống đạt hợp lệ, các văn bản tố tụng của Tòa án cho thấy ông V đã biết được việc bà L yêu cầu ly hôn với ông nhưng ông không có văn bản thể hiện ý kiến là muốn được đoàn tụ hoặc đưa ra những biện pháp cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, chứng tỏ rằng trong cuộc sống vợ chồng giữa bà L và ông V đã có những mâu thuẫn không giải quyết được. Xét thấy, cuộc sống hôn nhân của bà L và ông V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đồng thời, bản thân bà L xác định đã không còn tình cảm với ông V nên yêu cầu được chấm dứt hôn nhân. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà L là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000).

Về con chung: Bà L và ông V có 01 con chung tên Võ Hoàng Thúy N, sinh năm 1996 (đã trưởng thành) nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về vấn đề nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án là có căn cứ.

[4] Về án phí: Bà L phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm khi ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000); Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2014); Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa Bà Nguyễn Thị Ngọc L và Ông Võ Văn V.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc L phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà L đã nộp theo biên lai thu số 0002742 ngày 06/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 25/10/2019 về ly hôn

Số hiệu:43/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về