Bản án 43/2018/HS-ST ngày 31/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 31/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2018/HSST-QĐ ngày 29  tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

NGUYỄN HẢI L, sinh ngày 26-01-2002; Hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn A, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Vũ Thị T; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1970 (có đơn xin xét xử vắng mặt) và bà Vũ Thị T, sinh năm 1978 (có mặt); đều trú tại: Thôn A, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị S – Luật sư, Cộng tác viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Bị hại: Anh Tăng Xuân T, sinh ngày 06-02-2003; trú tại: Thôn P, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Hồ Thị L, sinh năm 1979 và ông Tăng Xuân P, sinh năm 1974; đều trú tại: Thôn P, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Phạm Hương L – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Người làm chứng:

Ông Tăng Xuân X, sinh năm 1949; Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 20-4-2018, Nguyễn Hải L lấy chiếc xe đạp mi ni của mẹ đẻ là chị Vũ Thị T rồi đi một mình từ nhà sang nhà bạn là Tăng Xuân T ở cùng thôn chơi. L và T có quan hệ bạn bè với nhau, L đã sang nhà T và lên phòng của T chơi nhiều lần. Khi đến cổng nhà T thì L thấy cổng mở nên đạp xe vào trong sân, dựng xe đạp tại sân. L quan sát thấy cửa chính nhà T khóa còn cửa lách phía bên phải không khóa, cửa mở to. L nghĩ T đang ở phòng ngủ trên tầng hai nên đã đi qua cửa lách vào trong bếp nhà T. Từ đây L đi ra cầu thang rồi lên tầng hai. L thấy cửa phòng ngủ của T không khóa nên đã đi vào trong nhưng không thấy T ở trong phòng. L nhìn thấy ở đầu giường ngủ của T có chiếc điện thoại màu hồng thò ra dưới gối ngủ. L thấy vậy nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. L tiến lại gần chiếc điện thoại, dùng tay phải rút điện thoại ra khỏi chiếc gối rồi đút chiếc điện thoại vào túi quần bên phải của mình. Sau đó, L đi xuống tầng một, qua cửa lách đi ra sân lấy xe đạp và đi về nhà. L cất giấu chiếc điện thoại ở nhà của mình và chờ điều kiện thuận lợi sẽ bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khoảng 10 giờ cùng ngày, T đi học về phát hiện bị mất điện thoại nên đã báo với gia đình mình. Ngày 21-4-2018, mẹ của T là chị Hồ Thị L có đơn trình báo sự việc đến Công an giải quyết. Quá trình làm việc với cơ quan điều tra, L khai nhận hành vi vi phạm và tự giác giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu  Iphone 7 Plus, dung lượng bộ nhớ 128 GB, vỏ màu hồng, số Imei: 353819089216424, điện thoại cũ đã qua sử dụng, có gắn 01 sim điện thoại Viettel, số thuê bao: 0869160177 là chiếc điện thoại L đã trộm cắp của T. Cơ quan điều tra còn quản lý 01 xe đạp mi ni màu vàng nhạt là xe L sử dụng làm phương tiện đi sang nhà T ngày 20-4-2018.

Tại Kết luận định giá tài sản số 387/QĐ- HĐ ĐGTS ngày 24-4-2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Gia Lộc kết luận: 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7 Plus, dung lượng bộ nhớ 128 GB, vỏ màu hồng, số Imei: 353819089216424, điện thoại cũ đã qua sử dụng, 01 sim điện thoại Viettel, số thuê bao: 0869160177, tổng giá trị tài sản là 14.000.000đ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Hải L không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá tài sản, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Cáo trạng số 44/QĐ-VKSND-GL ngày 16-5-2018, Viện kiểm sát nhân dân (viết tắt là VKSND) huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Hải L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự (viết tắt là BLHS) năm 2015.

Đại diện VKSND huyện Gia Lộc giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 90, Điều 91, Điều 100 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hải L phạm tội "Trộm cắp tài sản". Xử phạt bị cáo L từ 06 tháng đến 08 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo L cho UBND xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo L có trách nhiệm phối hợp với UBND xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hải L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo L 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng xin được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, VKSND huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Hải L tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, kết luận định giá và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 20-4-2018, tại nhà ở của chị Hồ Thị L ở thôn P, xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Hải L đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh Tăng Xuân T (là con của chị L) 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7 Plus có gắn 01 sim điện thoại Viettel, số thuê bao: 0869160177, tổng giá trị tài sản là 14.000.000đ.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự nhưng do cần tiền để tiêu xài, lại lười lao động nên bị cáo đã cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, giá trị tài sản chiếm đoạt là 14.000.000đ nên hành vi của bị cáo L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Vì vậy, VKSND huyện Gia Lộc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự trị an trong xã hội, gây tâm lý bất an trong nhân dân.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có ông nội, ông ngoại được Nhà nước tặng thưởng huy chương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Bị cáo L không có tiền án, tiền sự, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, Hội đồng xét xử thấy không cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội mà phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo thành người có ích cho xã hội. Bị cáo L khi phạm tội là người dưới 18 tuổi nên khi quyết định hình phạt được áp dụng Điều 90, Điều 91, Điều 100 BLHS năm 2015, không khấu trừ thu nhập của bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Tăng Xuân T xác nhận đã nhận lại tài sản mà bị cáo chiếm đoạt, anh T và người đại diện hợp pháp của anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về vật chứng: Đối với chiếc xe đạp mà bị cáo L sử dụng sang nhà T thuộc sở hữu của bà Vũ Thị T, bà T không biết L sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe đạp cho bà T là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 135, Điều 136 BLTTHS năm 2015, Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 90, Điều 91, Điều 100 BLHS năm 2015; Điều 135, Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hải L phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải L 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Hải L cho UBND xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo Nguyễn Hải L có trách nhiệm phối hợp với UBND xã T, huyện G, tỉnh Hải Dương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Hải L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo (bà T), người bào chữa có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp của bị cáo (ông P), bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của bị hại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 31/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về