Bản án 43/2018/HSST ngày 07/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 43/2018/HSST NGÀY 07/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/8/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2018/TLST-HS ngày 19/6/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2018/QĐXXST-HS ngày 24/7/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành C, sinh ngày 2/11/1987 tại Bình Định; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 2, thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; Nghề nghiệp: buôn bán; Học vấn: 10/12; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt nam; Con ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1964, và bà Trương Thị K, sinh năm 1965; Có vợ: Trần Thị Y và 01 con là Nguyễn Quốc H; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt quả tang ngày 6/3/2018; Có mặt tại phiên tòa.

*Nhân chứng:

1. Chị Võ Thị Mỹ T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn N, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai, vắng mặt.

2. Anh Phan Tấn M, sinh năm 1957. Địa chỉ: Tổ 5, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 08h ngày 06/3/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai phối hợp với Công an phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai bắt quả tang Nguyễn Thành C (trú tại tổ dân phố 2, TT.P, H.N, tỉnh Kon Tum) có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại phòng 405, khách sạn H, đường N, tổ 5, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai do anh Đỗ Văn T làm chủ khách sạn. Cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Thành C 02 gói ni lon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, C khai là ma túy đá.

Tại kết luận giám định số 174/KLGĐ ngày 14/3/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng dạng tinh thể trong 02 (hai) gói nilon gửi đi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 2,9504 gam”.

Quá trình điều tra Nguyễn Thành C khai:

Nguyễn Thành C bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2015 nhưng không liên tục, loại ma túy sử dụng là ma túy đá (loại Methamphetamine), hình thức sử dụng là hút. Nguyễn Thành C thường nhờ tài xế taxi M (không xác định được nhân thân) ở huyện N, tỉnh Kon Tum mua giúp, mỗi lần mua ma túy với số tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng. Ngày 03/3/2018, Nguyễn Thành C thuê ôtô BKS 82C-03416 của anh Lưu Trí K tại thôn X, xã Đ, huyện N, tỉnh KonTum, thời gian 05 ngày, với giá 1.000.000 đ/ngày để đi tỉnh B. Sau đó,  Nguyễn Thành C liên lạc với một người tên là T ở thành phố P, tỉnh Gia Lai (chưa xác định được địa chỉ, nhân thân lai lịch) là bạn quen biết ngoài xã hội để mua ma túy với số tiền là 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Số ma túy này sau khi mua về C sử dụng 02 lần thì hết. Sau khi thuê được xe ôtô, C đi đến tỉnh B để nộp tiền phạt do bị vi phạm giao thông nhưng không nộp được nên C quay trở về huyện N, tỉnh Kon Tum.

Khoảng 21h  ngày 05/3/2018,  Nguyễn Thành C điều khiển xe ôtô BKS 82C-03416 đi từ  huyện N, tỉnh Kon Tum đến TP. P, tỉnh Gia Lai. Khi đi đến khu vực B, TP. P, tỉnh Gia Lai  Nguyễn Thành C liên hệ với T qua phần mềm Zalo để thỏa thuận mua ma túy. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày theo hướng dẫn của T, C điều khiển xe ô tô đi vào xã I, huyện I, tỉnh Gia Lai cách ngã tư B, TP.P, tỉnh Gia Lai khoảng 10 km thì gặp T. Tại đây,  Nguyễn Thành C đưa cho T số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) và T giao cho C 01 (một) gói ma túy được bọc trong gói nilon và 01 cái “cóng” để sử dụng ma túy.  Nguyễn Thành C cất ma túy và “cóng” vào trong người rồi tiếp tục điều khiển xe ôtô đi đón chị Võ Thị Mỹ T (trú tại thôn N, xã I, H.C, T.Gia Lai) đến khách sạn H (đường N, tổ 5, phường T, TP. P, tỉnh Gia Lai) thuê phòng 405 để nghỉ qua đêm.

Đến khoảng 02 giờ sáng ngày 06/3/2018,  Nguyễn Thành C lấy một ít số ma túy đã mua của T ra chia làm 02 phần để trên bàn, trong đó 01 phần vẫn để trong túi ni lon và 01 phần đổ ra tờ giấy. Sau đó C lấy một phần nhỏ trong số ma túy đổ ra tờ giấy để C và chị T sử dụng. Số ma túy còn lại  Nguyễn Thành C vẫn để trên bàn. Đến khoảng hơn 7h ngày 06/3/2018, C dậy để đi ăn sáng, còn chị T vẫn còn ngủ. C vừa đi xuống cầu thang thì bị lực lượng Công an tỉnh Gia Lai phát hiện bắt giữ cùng với 2,9504 gam ma túy loại Methamphetamine.

Đối với số ma túy  Nguyễn Thành C mua vào ngày 03/3/2018 và đã sử dụng hết nên Cơ quan CSĐT không thu giữ được, do đó không xác định được khối lượng ma túy mà Nguyễn Thành C đã tàng trữ để sử dụng.

Đối với đối tượng tên T là người bán ma túy cho  Nguyễn Thành C, hiện nay chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai đang tiếp tục điều tra, xác minh để có biện pháp xử lý.

* Đối với các cá nhân có liên quan:

Chị Võ Thị Mỹ T là người cùng sử dụng ma túy với Nguyễn Thành C, chị T không biết C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 13/3/2018, Công an Phường T, TP.P, tỉnh Gia Lai đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với chị T.

Anh Lưu Trí K là người cho Nguyễn Thành C thuê xe ôtô, anh K không biết C đã sử dụng xe ô tô vào mục đích đi mua ma túy và bị bắt.

Vật chứng của vụ án:

- Thu giữ của Nguyễn Thành C: 02 (hai) gói nilon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 7.000.000đ (Bảy triệu đồng); 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, số IMEI: 354998073073097 và sim số 0962446768; 01 (Một) xe ô tô Biển kiểm soát: 82C-03416 do anh Lưu Trí K đứng tên sở hữu

Ngày 29/3/2018, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Gia Lai đã trả xe ô tô 82C- 03416 cho anh Lưu Trí K.

-Thu giữ của Võ Thị Mỹ T: 01 điện thoại đi động OPPO và 1.000.000 đồng (một triệu đồng), Cơ quan điều tra đã trả lại cho Võ Thị Mỹ T

Tại cáo trạng số 44/CTr-VKS-P1 ngày 15/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành C về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 ( Viết tắt là BLHS).

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đề nghị như sau:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành C từ 24 đến 30 tháng tù.

- Bị cáo không có tài sản riêng, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung

- Về vật chứng: đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) gói nilon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng loại Methamphetamine và sim điện thoại di động số 0962446XXX; Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, số IMEI: 354998073073097; Trả lại cho bị cáo số tiền 7.000.000 đồng.

Bị cáo không tranh luận gì với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, thừa nhận tội như cáo trạng truy tố, hối hận về hành vi đã phạm, mong hội đồng xét xử khoan hồng, xử phạt mức án nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phù hợp với cáo trạng. Đối chiếu với các tài liệu chứng cứ đã thu thập, có tại hồ sơ vụ án như: lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; lời khai nhân chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả khám xét nơi ở, kết quả giám định, thấy rằng các chứng cứ thu thập được, có tại hồ sơ vụ án là hợp pháp, đủ cơ sở khẳng định:

[2] Vào ngày 6/3/2018, cơ quan điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã bắt quả tang bị cáo Nguyễn Thành C tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng bị cáo đang thuê để nghỉ, thuộc khách sạn H (đường N, tổ 5, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai) .

[3] Quá trình điều tra xác định được: bị cáo Nguyễn Thành C là người sử dụng ma túy, loại Methamphetamine từ năm 2015. Ngày 3/3/2018, Nguyễn Thành C thuê ô tô của anh Lưu Trí K để đi từ huyện N, tỉnh Kon Tum về tỉnh Bình Định. Khi đến thành phố P, tỉnh Gia Lai,  Nguyễn Thành C đã mua 1.000.000 đồng ma túy của đối tượng tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) về sử dụng. Sau khi sử dụng hết số ma túy đã mua, ngày 5/3/2018  Nguyễn Thành C tiếp tục điều khiển xe ô tô đi đến thành phố P, tỉnh Gia Lai và mua của T 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng. Sau đó  Nguyễn Thành C đến khách sạn H, thành phố P, tỉnh Gia Lai thuê phòng, sử dụng một ít ma túy đã mua. Số còn lại bị bắt quả tang do bị cáo tàng trữ trên bàn tại phòng khách sạn H, qua giám định là 2,9504 gam ma túy loại Methamphetamine. Do đó, bị cáo Nguyễn Thành C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo tình tiết “Methamphetamine có khối lượng từ 0,1gam đến dưới 5 gam” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Ma túy là chất gây nghiện, tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe, nhân cách người bị nghiện. Nó cũng là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác như: Trộm cắp, cướp của, gây thương tích, giết người…Bị cáo nhận thức rõ tác hại nêu trên của ma túy, nhưng vì thỏa mãn nhu cầu sử dụng cá nhân mà bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn chung tại địa phương, cần phải được xử lý nghiêm, nên áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, và áp dụng hình phạt bổ sung buộc bị cáo nộp một khoản tiền sung công quỹ nhà nước nhằm giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; nên giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Về vật chứng:

Xét 02 (hai) gói nilon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine và sim điện thoại di động số 0962446XXX nên tịch thu tiêu hủy.

Xét 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng, số IMEI: 354998073073097 là vật bị cáo dùng liên lạc mua ma túy về sử dụng, tàng trữ, nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Xét số tiền 7.000.000 đồng thu của bị cáo Chương, cần bảo thủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo.

Từ các nhận định trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt chính:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành C 24 ( hai mươi bốn ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt quả tang: ngày 6/3/2018.

3. Về hình phạt bổ sung:

Căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành C phải nộp 7.000.000 ( bảy triệu ) đồng để sung công quỹ nhà nước.

4. Về vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xử:

- Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) gói nilon bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng loại Methamphetamine, có khối lượng đã trừ bì là 2,8970 gam, và vỏ bao gói được niêm phong trong bì công văn của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai cùng với sim điện thoại di động số 0962446XXX.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng, số IMEI: 354998073073097.

- Bảo thủ số tiền 7.000.000 đồng để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo.

(Các vật và tiền nêu trên có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng số 31/2018 lập  ngày 19/6/2018  giữa cơ quan điều tra Công an tỉnh Gia Lai với Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai).

5. Về án phí:

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử buộc bị cáo Nguyễn Thành C phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HSST ngày 07/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về