Bản án 43/2018/HSST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 43/2018/HSST NGÀY 06/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2018/HSST ngày 12/02/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2018/HSST-QĐ ngày 22/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Anh T, sinh năm 1982. Đăng ký hộ khẩu và cư trú: Số 23/33 BS, phường QT, thành phố H. Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12. Con ông Lê Quốc K, sinh năm 1943; con bà Lương Thị K, sinh năm 1959. Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 7; có vợ là chị Lê Thị H, sinh năm 1982; Có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2014. Tiền án: không; Tiền sự: Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính tại quyết định số 75 ngày 17/01/2017 bằng hình thức phạt số tiền 1.500.000đ về hành vi đánh bạc. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/12/2017, chuyển tạm giam từ ngày 18/12/2017 đến nay tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương. 

* Nhân thân:

- Quyết định số 220 ngày 02/8/2010 của Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 350.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (nộp tiền phạt ngày 09/8/2010).

- Quyết định số 98 ngày 27/8/2010 của Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính  bằng hình thức phạt tiền 350.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Quyết định số 264 ngày 31/10/2013 của Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi cố ý gây thương tích.

* Người làm chứng:Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1970

Cư trú tại: Số 5/5/61 TP, phường TP, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10h30’ ngày 16/12/2017, tại khu vực đối diện cây xăng Quân đội đường BĐ, phường THĐ, TP. H, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP. H bắt quả tang Lê Anh T đang cất giấu trái phép 01 gói giấy màu trắng có chữ, kích thước (0,5x1)cm bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, T khai nhận là Heroine, cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của anh Nguyễn Xuân H ở số 5/5/61 TP, phường TP, TP. H. Quá trình điều tra đã làm rõ: Do nghiện chất ma túy (loại Heroine), khoảng 10h15’ngày 16/12/2017, T đi ra khu vực nhà khách Tỉnh ủy ở đường BĐ, phường THĐ, TP. H mua được 01 gói Heroine của người nam thanh niên tên L (không rõ họ, địa chỉ) với số tiền 100.000đ rồi cầm trên tay trái đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 10h30’ cùng ngày, khi T đang đi bộ đến khu vực đối diện cây xăng Quân đội đường BĐ, phường THĐ, TP. H thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP. H bắt quả tang. Khi bị phát hiệnT thả gói Heroine xuống đất ngay chỗ T đứng. Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 gói giấy màu trắng có chữ, kích thước (0,5x1) cm bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, trước sự chứng kiến của các anh Nguyễn Xuân H.

Tại Kết luận giám định số 54/KLGĐ ngày17/12/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Hải Dương kết luận:Chất bột dạng cục màu trắng ghi thu của Lê Anh T, gửi đến giám định có trọng lượng là 0,152gam, là loại Heroine. Heroine n»m trong danh môc I, STT 20, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Về vật chứng: Đối với 0,099 gam Heroine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số 54/KLGĐ- PC54 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương hiện đang quản lý tại kho vật chứng của Công an thành phố H chờ xử lý theo quy định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại Cáo trạng số 49/VKS-HS ngày 09/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Lê Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. (được viết tắt là BLHS).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS;  Xử phạt bị cáo Lê Anh T từ 15 (Mười  lăm)  đến  18  (Mười  tám)  tháng  tù,  thời  hạn  tính  từ  ngày  tạm  giữ 16/12/2017; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định; Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1. Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10h30’ ngày 16/12/2017, tại khu vực đối diện cây xăng Quân đội đường BĐ, phường THĐ, TP. H, Lê Anh T đang cất giấu trái phép 0,152gam Heroine để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an TP. H phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm lưu hành, có tác hại lớn đến sức khỏe con người và là nguyên nhân gây phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội. Việc bị cáo cất giấu trái phép 0,152 gam Heroine trong người để sử dụng trái phép là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm vào chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt biết tôn trọng và chấp hành pháp luật.

2. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (được viết tắt là TNHS) của bị cáo thì thấy: Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân. Như vậy, xác định bị cáo có nhân thân xấu, thể hiện ý thức coi thường pháp luật; Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào; Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo khai báo thành khẩn, đó là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có việc làm, không có thu nhập và không tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đối với 0,099 gam Heroine hoàn lại sau giám định. Xét Heroine là chất cấm lưu hành nên tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Về án phí: Bị cáo phạm tội nên buộc phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng đã bán trái phép chất ma túy cho T do T tự khai tên L. T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này. Cơ quan CSĐT- Công an thành phố H tiếp tục xác minh, khi nào xác minh rõ được nhân thân lai lịch và hành vi vi phạm sẽ xử lý sau.

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Anh T 13 (Mười ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/12/2017.

2. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng;

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định, được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 54/KLGĐ PC54 của Phòng kỹ thuật - Công an tỉnh Hải Dương (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H ngày 23/02/2018).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 06/3/2018)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HSST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về