Bản án 43/2018/HSPT ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 43/2018/HSPT NGÀY 06/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2018/HSPT ngày 11/01/2018 đối với bị cáo: Phạm văn T, do có kháng cáo của bị cáo, đối với bản án hình sự sơ thẩm số 296/2017/HSST ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa.

Bị cáo kháng cáo: Phạm Văn T, sinh năm 1978, HKTT và chỗ ở: Thôn 1 Hoàng Long, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Phạm Trung D (đã chết) và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1948; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 09/01/2016, Công an phường Nam Ngạn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; tạm giữ, tạm giam: Không; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 8h 20p ngày 14/6/2017, Tổ công tác Công an phường Tào Xuyên, thành phố Thanh Hóa bắt quả tang Phạm Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong tay trái của T 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng kích thước khoảng 2x1cm. T khai nhận đó là hêrôin T mua để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Tổ công tác đã đưa T về Trụ sở lập biên bản và niêm phong tang vật.

Ngày 15/6/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì gửi niêm phong có trọng lượng 0,212g có hêrôin. Tại kết luận giám định số 2280 ngày 10/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì gửi niêm phong có hàm lượng hêrôin 63,70%.

Quá trình điều tra, Phạm Văn T khai nhận, do nghiện ma túy nên khoảng 8h ngày 14/6/2017, T một mình đi đến khu vực cầu Hàm Rồng cũ, phường Tào Xuyên tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây T gặp và mua 01 gói hêrôin với giá 100.000đ của một người phụ nữ không quen biết. Mua xong T cầm trong tay trái đem về nhà để sử dụng, khi đi đến khu vực ngã 5 Hoằng Long, phường Tào Xuyên, thành phố Thanh Hóa thì bị phát hiện bắt quả tang.

Đối với người phụ nữ T khai bán ma túy cho T, do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Tại bản án số 296/2017/HSST ngày 29/11/2017  của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa đã Quyết định:

- Tuyên bố: Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngày 05/12/2017, bị cáo Phạm Văn T có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo giữ nguyên kháng cáo.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (viết tắt BLTTHS), giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Văn T khai nhận: Khoảng 8h30 phút ngày 14/6/2017, tại khu vực ngã 5 Hoằng Long, phường Tào Xuyên, thành phố Thanh Hóa, bị cáo bị Tổ công tác Công an phường Tào Xuyên, thành phố Thanh Hóa bắt quả tang đang cầm trong tay trái một gói hêrôin, nguồn gốc gói ma túy do bị cáo vừa mua của một người phụ nữ không quen biết với giá 100.000đ, mục đích mua để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Kết quả giám định của Cơ quan điều tra, gói ma túy có trọng lượng 0,212g, có hàm lượng hêrôin 63,70%.

Do có hành vi nêu trên, Phạm Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 như bản án sơ thẩm đã xử là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, các hành vi phạm tội về ma túy không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, giống nòi mà còn gây ảnh hưởng xấu đến kinh tế và có nguy cơ gây mất trật tự an toàn cho xã hội. Do vậy đường lối của pháp luật đối với các loại tội phạm này cần phải xử lý nghiêm minh.

Trước khi phạm tội, ngày 09/01/2016, bị cáo đã bị Công an phường Nam Ngạn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục nghiện ngập nên đi mua ma túy tàng trữ để sử dụng. Khi quyết định hình phạt, bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo và đã được áp dụng nguyên tắc có lợi tại khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 của BLHS năm 2015 để xử thấp hơn mức án quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Mức án đã xử 18 tháng tù là phù hợp, như vậy mới đủ điều kiện để bị cáo cải tạo và giáo dục phòng ngừa chung. Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết giảm nhẹ gì mới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[3]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của BLTTHS.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 296/2017/HSST ngày 29/11/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa về hình phạt.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về thi hành Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T 18 (mười tám) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

-Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HSPT ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về