Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 12/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 43/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 180/2018/TLST-HNGĐ ngày 01/8/2018 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 928/2018/QĐST-HNGĐ ngày 08/10/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 956/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26/10/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị N

Địa chỉ: Tổ V 1, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng, có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Khắc P

Địa chỉ: Tổ V 1, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 26-6-2018 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn là chị Hoàng Thị N trình bày: Chị và anh Phạm Khắc P kết hôn với nhau tự nguyện, hai bên gia đình có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa P ngày 17- 10-2011 nhưng do chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn nên đến ngày 17-4-2014 vợ chồng chị mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chị về chung sống tại nhà chồng ở Tổ V 1, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, thời gian đầu hòa thuận, đển đầu năm 2017 thì vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống. Vợ chồng chị đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả và mâu thuẫn vẫn xảy ra và ngày càng căng thắng hơn. Do mâu thuẫn căng thẳng vợ chồng chị đã sống ly thân và không quan tâm đến nhau, chị và 02 con là Phạm Kiều P và Phạm Trang A về sống với bố mẹ chị tại Thôn P, xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng còn anh P sống cùng con là Phạm Khắc Minh Đ tại Tổ V 1, phường T, quận K. Đến nay, mâu thuẫn giữa chị và anh P đã trầm trọng và kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Khắc P.

Về con chung: Chị và anh Phạm Khắc P có 03 con chung là Phạm Kiều P, sinh ngày 29-7-2012; Phạm Trang A, sinh ngày 11-8-2014 và Phạm Khắc Minh Đ, sinh ngày 19-7-2016. Khi ly hôn chị nhận trực tiếp nuôi 02 con chung là Phạm Kiều P và Phạm Trang A và đồng ý để anh Phạm Khắc P trực tiếp nuôi con chung là Phạm Khắc Minh Đ đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Phạm Khắc P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý, Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng đều vắng mặt nên không có lời khai.

Ý kiến phát biểu của Đ diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng: Quá trình tiến hành tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn giải quyết cho chị Hoàng Thị N được ly hôn với anh Phạm Khắc P. Về con chung: Giao con chung là Phạm Kiều P, Phạm Trang A cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung là Phạm Khắc Minh Đ cho anh Phạm Khắc P trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật. Về án phí, chị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Anh Phạm Khắc P hiện đang cư trú tại Tổ V 1, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng. Do đó, vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt bị đơn là anh Phạm Khắc P: Anh Phạm Khắc P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Phạm Khắc P.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị N và anh Phạm Khắc P kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng ngày 17 tháng 4 năm 2014, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Lời trình bày của chị Hoàng Thị N và tài liệu, chứng cứ xác minh thể hiện mâu thuẫn vợ, chồng chị N, anh P đã phát sinh do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm. Do mâu thuẫn căng thẳng, vợ chồng chị N đã sống ly thân từ đầu năm 2017, không thể đoàn tụ được. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Hoàng Thị N và anh Phạm Khắc P đã trầm trọng và kéo dài, đời sống chung thực tế đã không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị N là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Hoàng Thị N và anh Phạm Khắc P có 03 con chung là Phạm Kiều P, sinh ngày 29-7-2012; Phạm Trang A, sinh ngày 11-8-2014 và Phạm Khắc Minh Đ, sinh ngày 19-7-2016. Lời khai của chị Hoàng Thị N và tài liệu, chứng cứ xác minh thể hiện: Chị Hoàng Thị N hiện đang trực tiếp nuôi 02 con chung là Phạm Kiều P và Phạm Trang A; anh Phạm Khắc P đang trực tiếp nuôi con chung là Phạm Khắc Minh Đ. Để đảm bảo việc học tập cũng như ổn định cuộc sống của các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung là Phạm Kiều P và Phạm Trang Anh cho chị Hoàng Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; giao con chung là Phạm Khắc Minh Đ cho anh Phạm Khắc P trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Đây cũng là quan điểm của Đ diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K tại phiên tòa.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Hoàng Thị N không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 233 , Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị N ly hôn anh Phạm Khắc P.

2. Về con chung: Giao con chung là Phạm Kiều P, sinh ngày 29-7-2012 và Phạm Trang A, sinh ngày 11-8-2014 cho chị Hoàng Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; giao con chung là Phạm Khắc Minh Đ, sinh ngày 19-7-2016 cho anh Phạm Khắc P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết cho đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Hoàng Thị N phải chịu 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí do chị N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận K theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010183 ngày 27 tháng 7 năm 2018. Chị Hoàng Thị N đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, anh Phạm Khắc P có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiên theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 12/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:43/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về