Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 43/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở toà án nhân dân huyện A tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 77/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2018, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 919/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị X; đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu V, thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng; hiện trú tại: Xóm B, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình, có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Anh Trần Văn C; trú tại: Khu V, thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 3 năm 2018, và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện A chị Bùi Thị X trình bày:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chị X và anh Trần Văn C kết hôn với nhau năm vào 2011, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 21 tháng 12 năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại khu V, thị trấn T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh C mải chơi không quan tâm đến gia đình, vợ con, chị X khuyên bảo can ngăn anh C không nghe, vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau, đã nhiều lần anh C đánh chửi chị X, gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Từ tháng 12 năm 2017, chị X đã bỏ về quê tại xóm B, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình sinh sống vợ chồng ly thân nhau từ đó, không ai quan tâm đến ai. Nay chị X thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng hàn gắn, đoàn tụ, nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện A giải quyết cho chị X được ly hôn anh Trần Văn C.

2. Về con chung: Chị Bùi Thị X và anh Trần Văn C có 02 con chung là Trần L, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2011, Trần Lệ P, sinh ngày 28 tháng 3 năm 2013, ly hôn chị X yêu cầu được nuôi cả 02 con, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Tài sản chung, công nợ và các vấn đề khác: Chị X trình bày chị và anh C không có, không yêu cầu toà án giải quyết.

Lời khai của anh Trần Văn C thể hiện nội dung: Thống nhất với chị X về thời gian và điều kiện kết hôn và xác định vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C không chịu khó làm ăn, đua đòi, chơi bời với bạn bè xấu, không quan tâm đến gia đình vợ con, gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả, từ cuối năm 2017, chị X bỏ về quê sinh sống, vợ chồng sống ly thân nhau. Nay chị X xin ly hôn với anh, anh C đồng ý ly hôn; về con chung, anh C thống nhất với chị X về việc vợ chồng có 02 con chung về họ tên tuổi, anh C đề nghị được nuôi con Trần Lệ P, để chị X nuôi con Trần L; về tài sản công nợ và các vấn đề khác anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn là chị Bùi Thị X có đơn khởi kiện về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con, anh Trần Văn C là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn đã cơ bản thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bị đơn không đến tham gia tố tụng tại tòa là đã không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của minh theo quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đề nghị giải quyết chị Bùi Thị X được ly hôn anh Trần Văn C, giao cho chị X được nuôi cả 02 con chung Trần L và Trần Lệ P, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Trần Văn C, chị X phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án về việc ly hôn và tranh chấp nuôi con, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nhân dân huyện A, thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc vắng mặt của bị đơn anh Trần Văn C: Anh Trần Văn C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 01, có đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiền hành xét xử vắng anh Trần Văn C.

- Về yêu cầu của nguyên đơn chị Bùi Thị X:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị X kết hôn với anh Trần Văn C, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 21 tháng 12 năm 2011, tại Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện A, Hải Phòng, căn cứ vào khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống trên cơ sở, lời khai các đương sự, biên bản xác minh của Tòa án thấy: Trong thời gian chung sống chị X và anh C đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh C chời bời, không chịu khó làm ăn, không quan tâm đến gia đình vợ con, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh C nhiều lần đánh chửi chị X, dẫn đến tình trạng cuộc sống chung của vợ chồng luôn nặng nề, căng thẳng, mâu thuẫn kéo dài, mặc dù gia đình khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, tháng 12 năm 2017, chị X bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình sinh sống, chị X, anh C đã ly thân nhau từ đó, không ai quan tâm đến ai. Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình, xác định mâu thuẫn của chị X, anh C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị X xin ly hôn anh C là có căn cứ, phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của chị X được ly hôn anh Trần Văn C.

[4] Về con chung: Chị X và anh C có 02 con chung là Trần L, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2011, Trần Lệ P, sinh ngày 28 tháng 3 năm 2013. Chị X có nguyện vọng được nuôi 02 con, anh C có đề nghị được nuôi con Trần Lệ P. Xét hiện nay cả hai con của chị X, anh C đều đang ở với chị X, được chị X nuôi dạy tốt, chị X có nghề nghiệp và thu nhập ổn định đảm bảo được điều kiện nuôi con, anh C không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định không đảm bảo được việc nuôi con nên căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao chị X được nuôi cả hai con. Về cấp dưỡng nuôi con chị X không yêu cầu nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh C.

[5] Về tài sản chung, công nợ và các vấn đề khác: Các đương sự không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Chị X phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào quy định tại các điều 19, 51, 53, 56, 57 và Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1- Chị Bùi Thị X được ly hôn anh Trần Văn C;

2- Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị X được quyền nuôi dưỡng con Trần L, sinh ngày 22 tháng 11 năm 2011, Trần Lệ P, sinh ngày 28 tháng 3 năm 2013 đến khi các con đủ 18 tuổi, hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị X phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0016760 ngày 30 tháng 3 năm 2018, của Chi cục Thi hành án huyện A, chị X đã nộp đủ án phí

Về quyền kháng cáo bản án:

Chị Bùi Thị X có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Trần Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:43/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về