Bản án 43/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 43/2017/HSST NGÀY 12/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2017/HSST ngày 22 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Lý Văn B, sinh năm 1976; Tên gọi khác: không; nơi sinh: tỉnh Cao Bằng; Nơi ĐKHKTT: thôn 04, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở trước khi phạm tội: thôn 04, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông; Trình độ văn hoá: 06/12; Nghề nghiệp: làm nông; Con ông Lý Văn S (đã chết) và Con bà Lục Thị P, sinh năm 1949; Vợ: Nông Thị T, sinh năm: 1985; Tiền án, Tiền sự: không; Nhân thân: năm 2013 bị đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy, thời hạn 18 tháng theo quyết định của UBND tỉnh Đăk Nông; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/5/2017 – Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Nông Thị T, sinh năm 1985- Có mặt tại phiên tòa.

Trú tại: thôn 04, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1971- vắng mặt. Trú tại: thôn N, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông.

2. Anh Phan Văn K, sinh năm 1974- vắng mặt.

Trú tại: thôn N, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 10 giờ, ngày 26/5/2017, Lý Văn B mượn xe mô tô biển số 48D1- 20.552 của chị Nông Thị T (vợ của Lý Văn B) đi từ thôn 4, xã C, huyện C ra ngã ba S, thuộc xã T, huyện C, để mua đồ dùng cho gia đình. Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi đang ở ngã ba S, Lý Văn B vô tình gặp C (chưa xác định được nhân thân lai lịch), biết C là người thường bán ma túy nên Lý Văn B hỏi mua 200.000 đồng ma túy để sử dụng. C đồng ý và đưa cho Lý Văn B một gói giấy bạc, bên trong chứa ma túy, Lý Văn B lấy ma túy bỏ vào trong bao thuốc lá hiệu WarHorse màu nâu rồi bỏ trong túi áo khoác phía bên trái. Sau đó Lý Văn B điều khiển xe mô tô biển số 48D1- 20.552 chở C về xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Khi đi đến gần trạm thu phí thuộc thôn B, xã Đ, huyện M thì C xuống xe đi có việc riêng, còn Lý Văn B tiếp tục điều khiển xe về xã Đ để mua nước cất dùng vào việc sử dụng ma túy. Khi đến trạm thu phí thuộc thôn B, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông thì Lý Văn B bị lực lượng công an huyện Đắk Mil, kiểm tra bắt quả tang. Thu giữ trong túi áo khoác bên ngực trái của Lý Văn B 01gói giấy bạc chứa các cục ma túy (Hêrôin) dạng bột màu trắng được giấu trong bao thuốc lá hiệu WarHorse màu nâu.

Tại kết luận giám định số 28/PC54 ngày 30/5/2017, của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, là heroin, trọng lượng 0.3168 gam. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Mẫu vật còn lại sau giám định có trọng lượng là 0.1885 gam, đựng trong 01 gói nilon được niêm phong.

Tại Bản cáo trạng số 54/CTr – VKS ngày 22 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil truy tố bị cáo Lý Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Lý Văn B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lý Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự và khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, xử phạt bị cáo Lý Văn B từ 12 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/5/2017.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 0.1885 gam gam hêrôin (hoàn lại sau giám định cùng bao gói mẫu vật) do không còn giá trị sử dụng.

Chấp nhận cơ quan điều tra Công an huyện Đăk Mil đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát số 48D1- 20.552 của chị Nông Thị T là chủ sở hữu hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo không bào chữa, tranh luận gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tung khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Xét lời khai của bị cáo Lý Văn B tại phiên toà là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có lưu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai.

Các chứng cứ buộc tội và quan điểm đề nghị xử lý của Viện kiểm sát đối với bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật nên cần chấp nhận.

Do bị cáo Lý Văn B đã thực hiện hành vi: Vào lúc 12h30’ ngày 26/05/2017, tại thôn B, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông, Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông bắt quả tang Lý Văn B có hành vi tàng trữ trái phép 0.3168 gam Hêrôin.

Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Lý Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”

Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Lý Văn B đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng rất xấu đến trật tự trị an tại địa phương nói riêng, đồng thời cũng là tiền đề của các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do lối sống buông thả, nghiện ngập nên bị cáo vẫn cố tình tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích là để sử dụng. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo được việc giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; mẹ bị cáo bà Lục Thị P đã có công trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu được Chủ tịch nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì. Vì vậy, Hội đồng xét xử, xét thấy cần áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa 14 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi và Căn cứ Công văn số 276/TANDTC-PC, ngày 13/9/2016 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp

dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Lý Văn B đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đối với 0.1885 gam và 01 vỏ bao thuốc lá mà cơ quan cảnh sát điều tra đã thu giữ của bị cáo Lý Văn B, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo Lý Văn B phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với đối tượng tên C là người đã bán ma túy cho Lý Văn B, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Mil, tỉnh Đắk Nông đang tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lý Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự và khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi;

Xử phạt: Bị cáo Lý Văn B 02(Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 26/5/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu hủy 0.1885 gam heroin, hoàn lại sau giám định cùng bao gói mẫu vật;

- Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá hiệu WarHorse.

- Chấp nhận cơ quan điều tra Công an huyện Đăk Mil đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát số 48D1- 20.552 của chị Nông Thị T.

(Vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/8/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lý Văn B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo B; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 43/2017/HSST ngày 12/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về