Bản án 42/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Đông Ngọc D, sinh năm 1973; ĐKHKTT: Số 14A/203/41 ngõ 203 KN, phường T, quận HB, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Thôn N, xã G, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đông Văn Q (đã chết) và bà Lê Thị T; Có chồng là Đỗ Xuân Ch (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 2000.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 349/HSST ngày 13/9/2004 của Tòa án nhân dân quận HB, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 42 tháng kể từ ngày 13/9/2004 về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”.

- Bản án số 705/2012/HSST ngày 24/12/2012 của TAND quận Đ, thành phố Hà Nội xử phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Nộp án phí ngày 06/5/2013. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/02/2017.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/12/2020, chuyển tạm giam từ ngày 01/01/2021 đến nay tại Trại tạm Công an tỉnh Hải Dương; Có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1979 Địa chỉ: Phòng 1C6 tập thể G, phường GV, quận B, thành phố Hà Nội. (vắng mặt).

- Chị Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 1969 Địa chỉ: Tổ 4, phường T, quận HB, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt).

- Anh Nguyễn Huy G, sinh năm 1984 Địa chỉ: Khu TL, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

- Anh Đoàn Văn C, sinh năm 1978 Địa chỉ: Khu V, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

*Ngưi làm chứng:

- Anh Đoàn Văn K, sinh năm 1977 Địa chỉ: Khu Đ, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

- Ông Hồ Văn C (Đ), sinh năm 1964 Địa chỉ: Thôn N, xã G, thành phố H, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khong tháng 11 năm 2020, Đông Ngọc D thuê nhà của ông Hồ Văn C (Đ) ở thôn N, xã G, thành phố H, tỉnh Hải Dương để làm nơi ở và mở quán cà phê C. Đến ngày 08/11/2020, D rủ Nguyễn Thị O là người quen của D đến ở cùng và thỏa thuận sẽ cùng góp tiền cho vào quỹ do D giữ để trả tiền thuê nhà và sinh hoạt chung (cả hai đều không đăng ký tạm trú). Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/12/2020, có khách quen của D là anh Đoàn Văn K ở Khu Đ, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương đến rủ D đi ăn, D đồng ý. K đưa D đến quán bia tại thị trấn Gi, huyện G, tỉnh Hải Dương. Tại đây D gặp bạn của K là Đoàn Văn C và Nguyễn Huy G. Trong lúc ăn uống G đặt vấn đề bảo D giới thiệu cho G gái mại dâm để mua dâm. D nghĩ đến Nguyễn Thị Bích H là người quen của D cũng là gái mại dâm hành nghề ở thôn N, xã G, thành phố H nên D về đón H ra ăn uống cùng. Sau khi ăn xong D, K, G, C và H cùng đi về quán cà phê của D ngồi chơi, lúc này O (là bạn D ở cùng với D) cũng có mặt tại quán. Sau đó H đi về quán của H để thay quần áo. Thấy G ngồi cạnh O nên D bảo G “bức xúc thì đi trước đi” ý D là G muốn mua dâm thì tự thỏa thuận với O. G quay sang nói chuyện và đặt vấn đề mua dâm với O, O đồng ý. Còn C hỏi D giá một lần mua dâm, D trả lời là 250.000đ/lần và muốn cho thêm tiền thì tùy. Sau khi thỏa thuận xong, G và O đi vào phòng ngủ phía ngoài gần cửa để mua bán dâm. Khi vào phòng G đưa tiền mua dâm cho O là 300.000đ, O lấy bao cao su đeo vào dương vật của G rồi cả hai quan hệ tình dục. Khi H quay lại, D đi ra bảo H bán dâm cho khách của D, Hòa đồng ý. Thấy H đến, C đi ra đưa D 300.000đ để trả tiền mua dâm, D đưa lại cho C và bảo C tự đưa cho chị H. Thấy O và G đã vào phòng phía ngoài, D bảo C và H vào phòng phía trong cạnh đó để mua bán dâm. Sau khi vào phòng, C đưa H 300.000đ trả tiền mua dâm, rồi cả hai quan hệ tình dục. D và K ngồi tại quán nói chuyện đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, tổ công tác Công an thành phố Hải Dương phát hiện C và H, O và G đang mua bán dâm, thu giữ trong phòng của C và H số tiền mua bán dâm là 300.000đ, thu giữ trong phòng của G và O số tiền mua bán dâm là 300.000đ và 01 bao cao su đã qua sử dụng đồng thời bắt quả tang Đông Ngọc D về hành vi chứa mại dâm.

Quá trình điều tra Đông Ngọc D khai nhận toàn bộ hành vi dùng nhà thuê của ông Hồ Văn C (Đ) làm địa điểm cho Đoàn Văn C và Nguyễn Thị Bích H thực hiện hành vi mua, bán dâm phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản Cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 25/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố Đông Ngọc D về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và mong muốn HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Đông Ngọc D phạm tội “Chứa mại dâm”. Áp dụng: Khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đông Ngọc D từ 18 - 21 tháng tù về tội Chứa mại dâm, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 29/12/2020; Hình phạt bổ sung: không áp dụng; Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 600.000đ; Về án phí: Buộc bị cáo Đông Ngọc D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 29/12/2020, Đông Ngọc D có hành vi sử dụng nhà thuê của ông Hồ Văn C (Đ) tại thôn N, xã G, thành phố H, tỉnh Hải Dương làm địa điểm cho Đoàn Văn C và Nguyễn Thị Bích H thực hiện hành vi mua, bán dâm thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

nh vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa mới, là môi trường lây lan căn bệnh xã hội khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc dùng nơi ở làm địa điểm cho người khác thực hiện việc mua bán dâm là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện.

t về nhân thân bị cáo đã hai lần bị xét xử nhưng không lấy đó là bài học cho bản thân để tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

[4]Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với số tiền 300.000đ thu giữ trong phòng của G và O và số tiền 300.000đ thu giữ tại mặt bàn trong phòng nơi Đoàn Văn C và Nguyễn Thị Bích H thực hiện hành vi mua bán dâm là tiền do vi phạm hành chính mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; Đối với 01 bao cao su đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8]. Về các vấn đề khác: Đối với Nguyễn Thị Bích H, Nguyễn Thị O, Đoàn Văn C, Nguyễn Huy G có hành vi mua bán dâm, Công an thành phố Hải Dương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Không đủ căn cứ xử lý Nguyễn Thị O đồng phạm với Đông Ngọc D về tội chứa mại dâm. Đối với anh Đoàn Văn K không liên quan đến việc mua bán dâm, ông Hồ Văn C (Đ) không biết D sử dụng nhà thuê để chứa mại dâm nên không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38; điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đông Ngọc D phạm tội “Chứa mại dâm”.

2. Xử phạt: Bị cáo Đông Ngọc D 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/12/2020.

3. Về vật chứng: - Tịch thu cho tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng được đựng trong 01 phong bì niêm phong theo biên bản niêm phong do cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương lập ngày 29/12/2020.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ được đựng trong phong bì niêm phong đánh số 34A, theo biên bản niêm phong do cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương lập ngày 29/12/2020.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ được đựng trong phong bì niêm phong đánh số 34B, theo biên bản niêm phong do cơ quan CSĐT Công an thành phố Hải Dương lập ngày 29/12/2020.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương và và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 13/4/2021).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Đông Ngọc D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần có liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HS-ST ngày 20/04/2021 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:42/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về