Bản án 42/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 03/03/2021 TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/HSST – QĐ ngày 02/02/2021 đối với bị cáo:

DVH, sinh năm 1991 tại Khánh Hòa; thường trú: Tổ 14, thị trấn VG, huyện VN, tỉnh KH; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông DVX (đã chết) và bà HTR, sinh năm 1965, vợ NTMC, sinh năm 1996; tiền án: Bản án số 08/2019/HSST ngày 11/01/2019 Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/7/2019, tiền sự: Ngày 29/9/2020 bị Công an phường An Thạnh xử phạt hành chính với số tiền 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng) về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; nhân thân: Ngày 18/7/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, đến ngày 08/11/2016 DVH bỏ trốn khỏi Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Cháu ĐHTT, sinh ngày 08/4/2006; thường trú: khu 5 TH, xã XT, huyện XL, tỉnh ĐN.

Tạm trú: Phòng số 8 số 608/3 khu phố TB, phường AT, thành phố TA, tỉnh BD, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà TTTT2, sinh năm 1983; thường trú: khu 5 TH, xã XT, huyện XL, tỉnh ĐN.

Tạm trú: Phòng số 8 số 608/3 khu phố TB, phường AT, thành phố TA, tỉnh BD, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại PTTT: Ông NTD – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người làm chứng: Cháu PMN, vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của người làm chứng: Bà VTTL, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

DVH là đối tượng không có việc làm. Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 26/9/2020 Dương Văn Hùng đi bộ từ khu vực ngã tư Hòa Lân 1, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đến khu phố Thạnh Bình, phường An Thạnh, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để tìm kiếm tài sản nhằm trộm cắp. Khi H đến trước cơ sở trọ số 608/3 khu phố Thạnh Bình, phường An Thạnh, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện trước phòng số 8 có một xe đạp điện màu đỏ hiệu ASAMA đang sạc điện, không có người trông coi nên H đi vào lén lút chiếm đoạt sau đó dắt xe đạp điện ra cửa, điều khiển xe tẩu thoát. H đạp xe một lúc thì mệt nên vào quán cà phê Bảo Anh thuộc khu phố Thạnh Lợi, phường An Thạnh để xe đạp điện ở đây rồi nghỉ ngơi, uống nước.

Sau khi bị phát hiện mất xe, ĐHTT đã thông báo cho mẹ và bạn bè tìm kiếm. Đến khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày thì PMN là bạn của T phát hiện một xe đạp điện có đặc điểm như T mô tả đang dựng ở chòi lá của quán cà phê Bảo Anh nên chụp hình và gửi tin nhắn qua facebook cho Thư, Thư xác nhận là đúng nên đến quán cà phê Bảo Anh cùng người dân giữ H lại đồng thời báo sự việc tới cơ quan chức năng.

Vật chứng thu giữ: 01 xe đạp điện ASAMA; 01 USB hiệu Kingston màu xanh loại 02Gb.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 02/10/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận 01 xe đạp điện hiệu ASAMA màu đỏ đen có giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

Tại Cáo trạng số 32/CT-VKS-TA ngày 11/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo DVH về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo DVH mức hình phạt từ 01 (một) năm 06 (sáu) tù đến 02 (hai) năm tù.

- Về vật chứng:

Đối với xe 01 xe đạp điện ASAMA là tài sản của LTTT nên cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho cháu T và bà T2 là có căn cứ.

Tại phiên tòa, bị cáo DVH đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thống nhất với tội danh và mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị. Về trách nhiệm dân sự bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường - Ý kiến của bị hại LTTT và người đại diện hợp pháp của bị hại bà T2 trong quá trình điều tra: Đã nhận lại xe đạp điện, không có yêu cầu bồi thường gì khác và đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo DVH khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 26/9/2020 tại địa chỉ phòng số 8 số 608/3 khu phố Thạnh Bình, phường An Thạnh, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương bị cáo DVH có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là xe đạp điện ASAMA trị giá 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) của bà Đỗ Hoàng Trúc Thư thì bị bắt giữ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội mới thuộc trường hợp tái phạm và phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, thuộc điểm h và i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là phù hợp.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị xử phạt bị cáo DVH mức hình phạt như trên là phù hợp nên chấp nhận.

[5]. Về xử lý vật chứng: Đối với xe đạp điện hiệu ASAMA, cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho cháu T và bà T2 là có căn cứ.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h, i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo DVH phạm tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo DVH 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2020.

2. Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo DVH phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm 3. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về