Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 30 tháng 8 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 158/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 537/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 603/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc C, sinh năm 199X; nơi cư trú: Đường Q, phường P, quận H, Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Anh T, sinh năm 199Y; nơi cư trú: Đường M, phường D, quận L, Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/5/2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc C trình bày: Chị và anh Trần Anh T xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Dư Hàng, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2020, đến nay có một con chung tên là Trần Bảo An, sinh ngày 03/11/2020. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên bất đồng về quan điểm sống, lối sống; hơn nữa anh T không hề quan tâm tới gia đình, vợ con. Từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cự cãi, tình cảm vợ chồng không còn. Hai bên đã sống ly thân và không còn quan tâm tới nhau về mọi mặt. Nay chị C xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung đến khi thành niên, việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận.

Về tài sản chung: Vợ chồng chị C, anh T không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị C nhận nộp cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Quá trình tòa án hòa giải và tại phiên tòa anh T đều vắng mặt nhưng tại bản tự khai ngày 08/6/2021 anh T trình bày: Anh nhất trí với trình bày của chị C về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, con chung và tài sản chung. Đến nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn vì vậy chị C xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Anh đồng ý giao con chung tên là Trần Bảo An, sinh ngày 03/11/2020 cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chấp hành chưa đầy đủ theo quy định của Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị C và anh T xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Dư Hàng, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2020 và có 01 con chung. Quá trình chung sống một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống, lối sống, tính cách luôn bất đồng và anh T không quan tâm tới gia đình, vợ con. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2021 đến nay. Xét thấy cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị C đã không còn tình cảm với anh T và có đơn xin ly hôn vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị C được ly hôn anh T.

Về con chung: Đề nghị giao con chung của chị C và anh T tên là Trần Bảo An, sinh ngày 03/11/2020 cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận;

Về tài sản chung: Vợ chồng chị C và anh T không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Về án phí: Chị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Chị Nguyễn Ngọc C khởi kiện xin ly hôn anh Trần Anh T làm phát sinh quan hệ tranh chấp về "ly hôn, nuôi con khi ly hôn". Bị đơn có địa chỉ cư trú tại địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Bị đơn anh Trần Anh T trong suốt quá trình giải quyết tại Tòa án đều vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nên theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án T hành xét xử theo thủ tục chung.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc C và anh Trần Anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Dư Hàng, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2020 nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống, lối sống, tính cách không hòa hợp, thường xuyên xảy ra cự cãi, va chạm; hơn nữa anh T còn mải chơi không quan tâm tới gia đình, vợ con. Mặc dù hai bên gia đình nội ngoại, người thân cùng Tòa án đã khuyên giải để vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc nhưng không có kết quả; vợ chồng đã tự sống ly thân từ đầu năm 2021 đến nay. T hành thu thập chứng cứ xác minh về thực trạng hôn nhân giữa chị C và anh T tại nơi cư trú và gia đình cho thấy: Vợ chồng chị C và anh T sống không hòa thuận, thường xuyên xảy ra va chạm, chị C không còn tình cảm gì với anh T nữa. Do vậy, việc chị C đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh T là có cơ sở nên được chấp nhận.

[4] Xét thấy mâu thuẫn giữa chị C và anh T đã thực sự trầm trọng; cuộc sống chung không thể kéo dài; mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; xử cho chị Nguyễn Ngọc C được ly hôn anh Trần Anh T.

[5] Về con chung: Vợ chồng chị Nguyễn Ngọc C và anh Trần Anh T có 01 con chung tên là Trần Bảo An, sinh ngày 03/11/2020. Khi ly hôn, chị C và anh T thống nhất giao con chung cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Sự thỏa thuận của chị C và anh T là phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy khi ly hôn cần giao con chung cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị C phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc C được ly hôn với anh Trần Anh T.

2. Về con chung: Khi ly hôn, giao con chung của chị Nguyễn Ngọc C và anh Trần Anh T tên là Trần Bảo An, sinh ngày 03/11/2020 cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Ngọc C phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị C đã nộp đủ tại C cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo Biên lai thu tiền số 0014421 ngày 13 tháng 5 năm 2021.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị Nguyễn Ngọc C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Trần Anh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết

5. Về quyền thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về