Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN – TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 434/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXX-ST ngày 18 tháng 5 năm 2021; quyết định hoãn phiên tòa số 145/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 02 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ 11, ấp An Lương, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Lê Quốc D, sinh năm 1980; nơi cư trú: Tổ 11, ấp An Lương, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn ngày 23-12-2020 và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà và ông Lê Quốc D qua quá trình tự tìm hiểu nhau nên bà cùng ông D đã tự nguyện đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn bà và ông D sống hạnh phúc, nhưng bắt đầu từ năm 2017, ông D không quan tâm chăm sóc vợ, con. Ông D thường xuyên nhậu nhẹt, cuộc sống hôn nhân của giữa bà và ông D không hạnh phúc, ly thân từ đó đến nay. Nay nhận thấy bà không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng cùng ông Lê Quốc D, bà Nguyễn Thị T xin ly hôn với ông Lê Quốc D.

Về con chung: Có 03 con chung tên Lê Công T1, sinh năm 2006; Lê Thị Diễm H, sinh năm 2008; Lê Thị Diễm T2, sinh năm 2013. Sau khi ly hôn bà có nguyện vọng nuôi các con, bà không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà và ông Lê Quốc D không có tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Quốc D Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Lê Quốc D để tham gia tố tụng nhưng ông vắng mặt không rỏ lý do, nên không tiếp nhận lời khai của ông Lê Quốc D Tại phiên tòa:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Lê Quốc D; yêu cầu nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu cấp dưỡng; tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Quốc D Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Lê Quốc D để tham gia tố tụng nhưng ông Lê Quốc D vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không rỏ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Về việc chấp hành pháp luật: Đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình tại Điều 70 BLTTDS.

- Về ý kiến việc giải quyết vụ án: Bà T và ông D đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lương Phi, huyện Tri Tôn được xem là quan hệ hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Quá trình chung sống ông D không quan tâm và có trách nhiệm chăm lo đời sống cho vợ con, thường xuyên nhậu nhẹt, thời gian ly thân từ năm 2017 đến nay, nhưng ông D vẫn không đến gặp bà T để hàn gắn tình cảm điều này chứng tỏ hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Ông D vẫn còn thường trú tại địa pH, đã nhận được các văn bản của Tòa án nhưng không có ý kiến gì về hôn nhân, con chung, điều này chứng tỏ ông D không tha T2ết hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà T. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà T xin ly hôn với ông D là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Có 03 con chung tên Lê Công T1, sinh ngày 23-11-2006; Lê Thị Diễm H, sinh ngày 17-8-2008; Lê Thị Diễm T2, sinh ngày 30-12- 2013. Bà T yêu cầu nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, hiện nay các con do bà T chăm sóc, nuôi dưỡng rất tốt và cũng có nguyện vọng sống với mẹ, để tránh xáo trộn cuộc sống và tâm lý của các cháu. Yêu cầu của bà T về nuôi con là có cơ sở chấp nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Từ những phân tích trên, đề nghị Tòa án xem xét quyết định.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà T, bà T được ly hôn với ông D.

Về con chung: Giao 03 cháu T1, H, T2 cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, ông D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phân tích, đánh giá về vụ án như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Lê Quốc D cư trú tại tổ 11, ấp An Lương, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, quan hệ tranh chấp là quan hệ hôn nhân và gia đình là loại tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và theo quy định khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lê Quốc D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa, nhưng ông D vẫn vắng mặt không rỏ lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt đối với ông Lê Quốc D.

[3] Về nội dung tranh chấp: Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông D được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào năm 2011 theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên giữa ông và bà sau khi kết hôn, do phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân chính bà T cho rằng ông D không quan tâm chăm sóc gia đình, ông D thường xuyên nhậu nhẹt, mặc dù bà đã nhiều lần hàn gắn. Bà T và ông D đã ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay. Nay bà T xin ly hôn ông D.

Quá trình tố tụng của Tòa án, cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Lê Quốc D, nhằm đảm bảo quyền lợi của ông Lê Quốc D theo quy định của pháp luật, để ông D được trình bày ý kiến, nhưng ông D vẫn vắng mặt và ông có có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà T. Do vậy, Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông D.

Tại biên bản xác minh ngày 06-03-2021 ban ấp An Ninh, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang xác định tình trạng hôn nhân giữa ông D và bà T như thế nào ban ấp không biết, hiện nay ông D đi làm ăn xa thỉnh thoảng có quay về địa pH, bà T hiện đang chăm sóc nuôi dưỡng các con rất tốt.

Hội đồng xét xử nhận thấy Hôn nhân là nhằm giúp vợ chồng xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, nhưng do vợ chồng không có tiếng nói chung trong việc giải quyết cuộc sống gia đình, tuy nhiên giữa bà T và ông D không hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân, bất đồng quan điểm sống, không giành thời gian quan tâm chăm sóc gia đình, chia sẻ, động viên nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống gia đình, đã ly thân từ năm 2017 đến nay, nhưng từ khi ly thân đến nay hai bên cũng không gặp gỡ nhau nhằm hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Từ đó Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông D rơi vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu của bà T về việc yêu cầu ly hôn với ông D là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Có 03 con chung tên Lê Công T1, sinh ngày 23-11-2006; Lê Thị Diễm H, sinh ngày 17-8-2008; Lê Thị Diễm T2, sinh ngày 30-12- 2013. Sau khi ly hôn bà T có nguyện vọng nuôi các con chung, bà không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung. Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng nhằm ghi nhận ý kiến ông D, nhưng ông D vắng mặt. Tại phiên tòa bà T vẫn xin được nuôi dưỡng 03 con chung. Hội đồng xét xử nhận thấy, từ khi bà T và ông D ly thân đến nay, các con đều do bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, bên cạnh đó nguyện vọng của cháu T1, H là muốn được sống cùng mẹ bà T sau khi cha mẹ ly hôn. Do vậy, nhằm tạo điều kiện sự phát triển toàn diện các cháu, tránh xáo trộn cuộc sống và tâm lý của các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao các cháu tên Lê Công T1, sinh năm 2006; Lê Thị Diễm H, sinh năm 2008; Lê Thị Diễm T2, sinh năm 2013 cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà T không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị T là nguyên đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình, bà T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227; Điều 228; Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Lê Quốc D.

Giấy chứng nhận kết hôn số 01/GKH, ngày 12 tháng 8 năm 2011 của Ủy ban nhân dân xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Giao 03 cháu tên Lê Công T1, sinh ngày 23-11-2006; Lê Thị Diễm H, sinh ngày 17-8-2008; Lê Thị Diễm T2, sinh ngày 30-12- 2013 cho bà Nguyễn Thị T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông Lê Quốc D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu số 0000685 ngày 25 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về