Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 10/09/2021 về xin ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2021 VỀ XIN LY HÔN 

Ngày 10 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 111/2021/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2021 về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXX-ST ngày 09 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hồng H, sinh năm 1972; Địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.

- Bị đơn: Bà Vương Thị V, sinh năm 1976; Địa chỉ: Thôn X, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện và lời khai của nguyên đơn Ông Nguyễn Hồng H trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và Bà Vương Thị V có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Minh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông vào ngày 28 tháng 12 năm 1997, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc.

Về con chung: Trong thời gian chung sống tôi và bà Vương có 02 con chung tên Nguyễn Lan A, sinh ngày 15/10/2000 và Nguyễn Triều V, sinh ngày 10/01/2005.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về công nợ: Không.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Trong cuộc sống hôn nhân ông và bà V không có tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra cải nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nhiều.

Do đó ông làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết những vấn đề sau: Về quan hệ hôn nhân: Xin ly hôn với bà Vương Thị V; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Triều V cho Bà Vương Thị V được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành; Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về công nợ: Không có.

- Theo nội dung lời khai của bị đơn Bà Vương Thị V trong quá trình giải quyết vụ án: Đối với bị đơn Bà Vương Thị V, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã tiến hành tống đạt hợp lệ giấy triệu tập đương sự; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bà Vương, tuy nhiên bà Vương cố tình trốn tránh không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án xin ly hôn với ông Hà.

- Theo nội dung lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cháu Nguyễn Triều V trong quá trình giải quyết vụ án: Trường hợp Ông Nguyễn Hồng H và Bà Vương Thị V ly hôn với nhau thì nguyện vọng của cháu là được ở với Bà Vương Thị V.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà xác định việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm cơ bản tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa tuân thủ quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của Ông Nguyễn Hồng H, Ông Nguyễn Hồng H được ly hôn với Bà Vương Thị V; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Triều V cho Bà Vương Thị V được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành; Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

- Về án phí: Ông Nguyễn Hồng H phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án xin ly hôn, bị đơn Bà Vương Thị V có địa chỉ tại Thôn X, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Do đó việc Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông thụ lý và giải quyết là đúng quy định tại Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của bị đơn Bà Vương Thị V: Đối với bị đơn Bà Vương Thị V, sau khi vụ án được đưa ra xét xử, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, tuy nhiên bà Vương vẫn vắng mặt không có lý do, do đó Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt Bà Vương Thị V theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Ông Nguyễn Hồng H, Bà Vương Thị V có đăng ký kết hôn vào ngày 28 tháng 12 năm 1997 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đức Minh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc. Trong thời gian chung sống Ông Nguyễn Hồng H, Bà Vương Thị V có 02 con chung tên Nguyễn Lan A, sinh ngày 15/10/2000 và Nguyễn Triều V, sinh ngày 10/01/2005. Thời gian chung sống ông Hà, bà Vương hay bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, ông Hà, bà Vương đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay.

[3] Xét yêu cầu ly hôn của Ông Nguyễn Hồng H:

- Về hôn nhân: Ông Nguyễn Hồng H, Bà Vương Thị V có đăng ký kết hôn tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Đức Minh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc, thời gian đầu hai bên chung sống hạnh phúc với nhau, về sau thì hai bên bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, hay xảy ra cải nhau, ông Hà, bà Vương đã sống ly thân với nhau từ năm 2018 cho đến nay. Trong quá trình lấy lời khai ông Hà thừa nhận không còn tình cảm với bà Vương và muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống vì hôn nhân vợ chồng không đạt được mục đích.

Xét thấy ông Hà, bà Vương đã sống ly thân với nhau từ lâu, điều đó thể hiện quan hệ hôn nhân giữa ông Hà, bà Vương đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy để giải phóng cho hôn nhân không còn mục đích, Hội đồng xét xử nghĩ cần căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho ly hôn giữa Ông Nguyễn Hồng H và Bà Vương Thị V là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về con chung: Trong quá trình giải quyết vụ án ông Hà đồng ý giao cháu Nguyễn Triều V cho Bà Vương Thị V được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành, hiện cháu V đang ở cùng bà Vương, trong quá trình làm việc cháu V cũng có nguyện vọng được sống chung với bà Vương, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu V cho bà Vương được quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giao dục là phù hợp. Đối với cháu Nguyễn Lan A, sinh ngày 15/10/2020 đến nay đã trưởng thành nên không đặt ra để giải quyết.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không đặt ra để giải quyết.

- Về công nợ: Không có nên không đặt ra để giải quyết.

[4] Về án phí: Ông Nguyễn Hồng H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 91; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ Điều 144; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của Ông Nguyễn Hồng H với Bà Vương Thị V, giải quyết Ông Nguyễn Hồng H được ly hôn với Bà Vương Thị V.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Triều V, sinh ngày 10/01/2005 cho Bà Vương Thị V được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, đến khi cháu V đủ 18 tuổi trưởng thành. Ông Nguyễn Hồng H được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, bà Vương không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục con chung.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110; Điều 117; Điều 118 và Điều 119 Luật HNGĐ năm 2014.

4. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không đặt ra để giải quyết.

5. Về công nợ: Không có nên không đặt ra để giải quyết.

6. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Ông Nguyễn Hồng H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006586 ngày 11/5/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

7. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 10/09/2021 về xin ly hôn 

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về