Bản án 42/2020/HS-ST ngày 14/07/2020 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 14 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 46/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Hoàn N – Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 26 tháng 6 năm 2002 tại tỉnh Lâm Đồng Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Làm thuê Cha: Bùi Văn T, sinh năm 1982; Mẹ: Nguyễn Ngọc K, sinh năm 1984; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.

Vợ, con: chưa có Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/03/2020 đến ngày 03/4/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo:

Ông Bùi Văn T, sinh năm 1982 là cha, bà Nguyễn Ngọc K, sinh năm 1984 là mẹ của bị cáo, cùng trú tại: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa có bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968 Trú tại: Thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng Bà Nguyễn Thị H là bác ruột của bị cáo là đại diện cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị M – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Hùng S, sinh năm 1989.

Nơi công tác: Đội Cảnh sát giao thông – TTCĐ Công an huyện Lâm Hà Chỗ ở: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ông Đàm Thanh L, sinh năm 1975.

Trú tại: TDP G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Phạm Quốc T, sinh năm 1983 Trú tại: TDP G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thực hiện kế hoạch số 05/KHPH-PC08CHA ngày 01 tháng 01 năm 2020 của Công an huyện Lâm Hà và Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lâm Đồng về phối hợp tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ tuyến Quốc lộ 27. Ngày 29/03/2020 tổ công tác của Đội cảnh sát giao thông - TTCĐ Công an huyện Lâm Hà gồm đồng chí Nguyễn Hùng S, đồng chí Nguyễn Văn H, đồng chí Nguyễn Hữu Hồng Q cùng 03 đồng chí là Đỗ Tiến D, Hà Phước H và Tô Chí T thuộc biên chế phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lâm Đồng làm nhiệm vụ tại trục đường nhựa Quốc lộ 27 thuộc địa phận tổ dân phố G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng để tuần tra, kiểm tra tốc độ, nồng độ cồn của các loại phương tiện giao thông trên tuyến đường này.

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 29/03/2020 Bùi Hoàn N, sinh ngày 26/06/2002, có hô khẩu thường trú tại thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius màu đen bạc, biển số 49D1- 54427 theo hướng từ thành phố Đà Lạt về huyện Lâm Hà. Khi đi đến tổ dân phố Gia Thạnh, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà thuộc trục đường nhựa Quốc lộ 27 thì gặp tổ công tác đang làm nhiệm vụ tại đây. Tổ công tác phát hiện xe mô tô do bị cáo Bùi Hoàn N điều khiển vi phạm về tốc độ khi đang tham gia giao thông nên đồng chí Nguyễn Hùng S trong tổ công tác tuần tra giao thông đang làm nhiệm vụ đã thực hiện các động tác đúng quy định thổi còi, đưa gậy ra hiệu lệnh cho N dừng xe để kiểm tra. Bị cáo N thấy Cảnh sát giao thông thổi còi, đưa gậy ra hiệu lệnh cho N điều khiển xe đi chậm và hướng vào lề đường bên phải theo hướng huyện Đức Trọng đi huyện Lâm Hà. Khi xe của N đi cách lề đường khoảng 1m thì đồng chí Nguyễn Hùng S ra đứng gần lề đường ra hiệu cho xe của N dừng hẳn để kiểm tra nhưng N không chấp hành hiệu lệnh dừng xe lại mà bị cáo N điều khiển xe tăng tốc nhằm mục đích bỏ chạy, cản trở quá trình kiểm tra của đoàn công tác. Do đồng chí S đứng gần nên khi N điều khiền xe tăng tốc đã xảy ra va chạm phần đuôi xe vào chân đồng chí S làm cho đồng chí S té ngã xuống đường, đồng thời xe của N cũng bị ngã ra đường. Ngay lập tức tổ công tác khống chế được N và đưa về trụ sở Công an thị trấn Đinh Văn làm việc. Hậu quả đồng chí S bị thương tích rách da, bầm tím gót chân và cổ chân bên trái.

Vật chứng thu giữ:

01 xe mô tô Yamaha hiệu Sirius biển số 49D1- 54427.

Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô Yamaha hiệu Sirius biển số 49D1- 54427 là của bị cáo Bùi Hoàn N nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Hùng S từ chối giám định thương tích và cũng không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự.

Quá trình điều tra bị cáo Bùi Hoàn N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1, điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại bản cáo trạng số 47/CT - VKS ngày 09 tháng 06 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà để xét xử bị cáo: Bùi Hoàn N về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo: Bùi Hoàng Nam về tội “Chống người thi hành công vụ” và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Hoàn N từ 09 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với nội dung bản trạng số 47/CT - VKS ngày 09 tháng 06 năm 2020 mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Bùi Hoàn N về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 91, Điều 99, Điều 100 và Điều 111 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án tiền sự, hoàn cảnh gia đình khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định tại Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 giao bị cáo Bùi Hoàn N về nơi bị cáo có hộ khẩu thường trú là Ủy ban nhân dân xã Tân Hà, huyện Lâm Hà giám sát, giáo dục và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương theo dõi, giám sát giáo dục bị cáo là phù hợp.

Tại phiên tòa bị cáo N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở hồ sơ vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Về tư cách tham gia tố tụng do anh Nguyễn Hùng S công tác tại đội Cảnh sát giao thông – TTCĐ Công an huyện Lâm Hà. Trong quá trình khởi tố, truy tố xác định anh Nguyễn Hùng S bị thương tích rách da, bầm tím gót chân và cổ chân bên trái nhưng anh S có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường gì. Khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử anh S có đơn xin xét xử vắng mặt, anh S cũng không có yêu cầu xem xét gì về thương tích mà bị cáo đã gây ra và cũng không có yêu cầu bồi thường trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử xác định anh Nguyễn Hùng S tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng trong vụ án.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với bản cáo trạng, bản kết luận điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở khẳng định: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 29/03/2020 Bùi Hoàn N, sinh ngày 26/06/2002 có hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius màu đen bạc, biển số 49D1- 54427 hướng từ thành phố Đà Lạt về huyện Lâm Hà. Khi đi đến tổ dân phố G, thị trấn Đ thì gặp tổ công tác đang làm nhiệm vụ. Tổ công tác phát hiện xe mô tô do bị cáo Bùi Hoàn N điều khiển vi phạm về tốc độ khi tham gia giao thông nên đồng chí Nguyễn Hùng S trong tổ công tác tuần tra giao thông đang làm nhiệm vụ đã thực hiện các động tác đúng quy định thổi còi, đưa gậy ra hiệu lệnh cho N dừng xe để kiểm tra. Bị cáo N thấy Cảnh sát giao thông thổi còi, đưa gậy ra hiệu lệnh cho N điều khiển xe đi chậm và hướng vào lề đường bên phải theo hướng huyện Đức Trọng đi huyện Lâm Hà. Khi xe của Nam đi cách lề đường khoảng 1m thì đồng chí Nguyễn Hùng S ra đứng gần lề đường ra hiệu cho xe của N dừng hẳn lại để kiểm tra, nhưng N không chấp hành hiệu lệnh dừng xe lại mà bị cáo N điều khiển xe tăng tốc nhằm mục đích bỏ chạy, cản trở quá trình kiểm tra của đoàn công tác. Do đồng chí S đứng gần nên khi N điều khiền xe tăng tốc đã xảy ra va chạm phần đuôi xe vào chân đồng chí Sơn làm cho đồng chí S té ngã xuống đường hậu quả đồng chí S bị thương tích rách da, bầm tím gót chân và cổ chân bên trái.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Bùi Hoàn N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Như vậy, Hôi đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã cố ý xâm phạm trực tiếp đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công, hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật và làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an xã hội. Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, chỉ nhất thời phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017. Khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên áp dụng quy định tại Điều 91, Điều 99, Điều 100 và Điều 111 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 vì vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt cải tại không giam giữ đối với bị cáo, cho bị cáo được tự cải tạo rèn luyện bản thân, giúp cho bị cáo ổn định về mặt tâm lý, tinh thần, phát triển bình thường hoàn thiện nhân cách, đạo đức, sửa chữa sai lầm dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình theo quy định tại Điều 36 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 cũng có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ người bị kết án phải bị khấu trừ thu nhập từ 5 đến 20%, tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy hoàn cảnh bị cáo khó khăn hiện nay không có công việc ổn định nên không cần thiết phải áp dụng khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với xe mô tô Yamaha hiệu Sirius biển số 49D1- 54427 màu đen bạc là của bị cáo mua lại của anh Đỗ Thanh T vào năm 2018 là hợp pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng số 31/QĐ- CSĐT ngày 28/4/2020 trả cho chủ sở hữu là bị cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Hùng S bị thương tích rách da, bầm tím gót chân và cổ chân bên trái, anh S có đơn từ chối giám định thương tích và tại phiên tòa anh cũng không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Từ những phân tích nhận định trên nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ răn đe, phòng ngừa chung, giáo dục bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành người có ích cho xã hội và gia đình đồng thời thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Hoàn N phải chịu án 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Hoàn N phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36, Điều 91, Điều 99, Điều 100 và Điều 111 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bùi Hoàn N 09 (chín) tháng cải tạo không giam giữ. (Được trừ thời gian tạm giữ, tam giam từ ngày 29/3/2020 đến ngày 03/4/2020).

Thời gian chấp hành án tính từ ngày cơ quan tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Bùi Hoàn N về cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Lâm Hà nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục và gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương theo dõi, giám sát giáo dục bị cáo. Trong trường hợp bị cáo Bùi Hoàn N thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành án được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 75 Luật thi hành án hình sự.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Bùi Hoàn N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HS-ST ngày 14/07/2020 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về