Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 257/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Phương H, sinh năm 1983. Địa chỉ: số 84, đường A, khu phố B, phường C, thành phố T, tỉnh Tây Ninh. “Vắng mặt”

Bị đơn: Anh Lê Hữu P, sinh năm 1988. Địa chỉ: hẻm 24, tổ 5, đường 786, ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh Tây Ninh. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 25/5/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - Chị Nguyễn Thị Phương H trình bày: Chị và Anh Lê Hữu P chung sống với nhau vào năm 2019, có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới được 2, 3 tháng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, ly thân từ tháng 03/2020 cho đến nay. Nguyên nhân do Anh P thường xuyên ăn nhậu, say xỉn gây gổ, đánh đập, đe dọa chị và gia đình chị. Anh P ăn chơi cờ bạc, gây nợ nần thế xe của gia đình chị phải đi chuộc xe về; vàng bạc và tiền cưới Anh P đem bán để chơi cờ bạc mà không có sự đồng ý của chị. Trước khi kết hôn Anh P làm thợ bê, nhưng sau đám cưới không đi làm gì, ở nhà ăn chơi cờ bạc, tụ tập ăn nhậu, không lo làm ăn. Mọi chi tiêu sinh hoạt trong gia đình do mình chị bỏ ra, Anh P không quan tâm, lo lắng đến gia đình. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng không thể về chung sống lại được nữa, chị yêu cầu được ly hôn với Anh P.

Về con chung: Không có.

Tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Anh Lê Hữu P trình bày trong hồ sơ vụ án: Tại bút lục số 18, anh và Chị Nguyễn Thị Phương H chung sống với nhau vào năm 2019, có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới được 2,3 tháng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, ly thân từ tháng 03/2020 cho đến nay, từ khi ly thân hai bên không qua lại hay gặp nhau để hàn gắn. Anh đồng ý ly hôn với Chị H nhưng không đồng ý lên Tòa án giải quyết vụ án.

Về con chung: Không có.

Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Tây Ninh trình bày:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký đã thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về ý kiến giải quyết vụ án: Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cở sở, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị H, xử cho chị được ly hôn với Anh P. Về con chung: Không có. Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung: Không có. Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị H, Anh P vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227; Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt anh, chị.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H, Anh P chung sống và đăng ký kết hôn ngày ngày 03/10/2019 tại UBND xã Đ, huyện C, tỉnh Tây Ninh, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Theo Chị H trình bày, quá trình chung sống, anh chị bất đồng quan điểm, thường hay gây gổ, cự cãi, không cùng nhau bàn bạc làm ăn phát triển kinh tế gia đình. Anh P thường xuyên ăn nhậu say sỉn, cờ bạc gây nợ nần, đánh đập và hăm dọa Chị H và gia đình chị, Chị H khuyên nhủ nhiều lần nhưng Anh P không thay đổi. Anh chị ly thân từ tháng 02/2020 đến nay, từ khi ly thân đến nay hai bên không gặp nhau hòa giải, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Qua xác minh địa phương xác định lời trình bày của Chị H về mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa Chị H, Anh P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Chị H, xử cho chị được ly hôn với Anh P là phù hợp khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Không có.

[4] Về tài sản chung: Chị H, Anh P khai không yêu cầu giải quyết. Nợ chung anh chị khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ Luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Nguyễn Thị Phương H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Phương H được ly hôn với Anh Lê Hữu P.

2.Về con chung: Không có.

3.Tài sản chung, nợ chung không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Phương H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm; nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0007007 ngày 26/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:42/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về