Bản án 42/2020/DSST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 42/2020/DSST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 59/2020/TLST-DS ngày 08 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Phạm Thị H, sinh năm: 1964 Nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường L, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Minh T, sinh năm: 1985 Nơi cư trú: đường A, tổ dân phố S, phường P, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. (Văn bản ủy quyền ngày 09/4/2020) (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Bị đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh năm: 1949 Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố T, phường L, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Tạm trú: Tổ dân phố S, phường L, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt)

* Người làm chứng:

1/ Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm: 1977

2/ Nguyễn Thị Ngọc P, sinh năm: 1980 Cùng trú tại: Tổ dân phố S, phường L, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn bà Phạm Thị H trình bày:

Vào ngày 12/11/2011 bà H có cho bà M vay số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) để làm ăn, lãi bằng lời nói 2%, không thể hiện thời gian trả. Bà M nhờ bà H viết giấy mượn tiền, bà M ký và có 02 con bà M là Nguyễn Thị Ngọc H và Nguyễn Thị Ngọc P làm chứng ký. Để làm tin bà M đưa cho bà H giấy sang nhượng nhà và đất lập ngày 10/10/1996 thuộc thửa đất số 163, tờ bản đồ số 19 diện tích 65,3m2 tọa lạc tại đường H, tổ dân phố T, phường L, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Sau nhiều năm liên tục đòi mà bà M cố tình không trả. Nay bà H yêu cầu bà M có trách nhiệm trả 200.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Nguyễn Thị M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa để trình bày ý kiến và yêu cầu của mình.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.

Đại diện nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bị đơn, người làm chứng chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, vắng mặt tại phiên tòa và các phiên hòa giải.

Về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bà Nguyễn Thị M phải trả nợ vay cho bà H 200.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị M phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Phạm Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị M trả nợ do vi phạm hợp đồng vay tài sản. Yêu cầu của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố C theo qui định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Đại diện nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn bà Nguyễn Thị M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự để tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về quan hệ tranh chấp: Ngày 12/11/2011 bà H có cho bà M vay số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) để làm ăn, sau nhiều năm bà H liên tục đòi mà bà M cố tình không trả. Căn cứ vào Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định tranh chấp trong giao dịch dân sự giữa bà H và bà M là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Về áp dụng pháp luật: Hợp đồng được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực, tuy nhiên giao dịch dân sự đang được thực hiện có nội dung và hình thức của phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015 nên áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự 2015 để giải quyết tranh chấp theo quy định Điều 688 của Bộ luật dân sự 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

Căn cứ vào giấy mượn tiền lập ngày 12/11/2011 do nguyên đơn cung cấp có cơ sở xác định: Bà H có cho bà M vay số tiền 200.000.000 đồng, giấy mượn tiền không thể hiện về thời hạn vay và không thể hiện lãi, có chữ ký của bà M và người làm chứng Nguyễn Thị Ngọc H, Nguyễn Thị Ngọc P. Sau khi bà M vay mượn tiền, Bà H liên tục yêu cầu bà M phải trả nợ nhưng đến nay bà M cố tình không trả là vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bà M không đến Tòa để trình bày ý kiến và yêu cầu của mình và cũng không giao nộp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Do đó, việc bà H yêu cầu bà M có nghĩa vụ trả nợ vay 200.000.000 đồng là có căn cứ theo Điều 463; Điều 466; Điều 469; Điều 688 Bộ luật dân sự 2015 nên chấp nhận.

Đối với giấy sang nhượng nhà và đất lập ngày 10/10/1996, Hội đồng xét xử xét thấy, việc bà M thế chấp cho bà H giấy sang nhượng trên để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng, tuy nhiên hình thức của hợp đồng sang nhượng không được công chứng, chứng thực và việc thế chấp này không theo qui định của pháp luật về thế chấp quyền tài sản để đảm bảo khoản vay. Do đó, bà H có nghĩa vụ trả lại giấy sang nhượng nhà và đất lập ngày 10/10/1996 cho bà M.

Về lãi suất: Không yêu cầu nên không xét.

[3] Về án phí: Bà M là người cao tuổi, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án bà M không có đơn đề nghị miễn án phí. Do đó, bà M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu của bà H được Tòa án chấp nhận theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, cụ thể bà Nguyễn Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 200.000.000đồng x 5% = 10.000.000đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 463; Điều 466; Điều 469; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Phạm Thị H.

1/ Buộc bà Nguyễn Thị M phải trả cho bà Phạm Thị H 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

Bà Phạm Thị H phải trả cho bà Nguyễn Thị M giấy sang nhượng nhà và đất lập ngày 10/10/1996.

2/ Về án phí: Bà Nguyễn Thị M phải nộp 10.000.000 đồng (M triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho bà Phạm Thị H 5.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số: AA/2018/0000998 ngày 08/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố C.

3/ Quy định: Kể từ ngày bà Phạm Thị H có đơn yêu cầu thi hành án mà bà Nguyễn Thị M chưa thi hành xong khoản tiền phải trả cho bà Phạm Thị H. Hàng tháng, bà Nguyễn Thị M còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất được quy đinh tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền nợ gốc và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bà Phạm Thị H, bà Nguyễn Thị M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/DSST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:42/2020/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về