Bản án 42/2020/DS-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA - TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 42/2020/DS-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 315/2012/TLST-DS ngày 26 tháng 10 năm 2012, về tranh chấp“Hợp đồng mua bán tài sản”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/QĐXX-ST ngày 26/5/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Thanh S, sinh năm: 1964; Địa chỉ: 27 T, phường M, thành phố T, Phú Yên.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm: 1982; Địa chỉ: thôn C, xã H, huyện P, Phú Yên.

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn T1, sinh năm: 1982;

Địa chỉ: thôn P, xã H, huyện Đ, Phú Yên.

Các đương sự đều vắng mặt (Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 08/12/2012 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S trình bày:

Ngày 07/02/2010, giữa bà Hồ Thị Thanh S và ông Trần Văn T có ký hợp đồng trả góp mua xe máy; theo đó ông T mua của bà S 01 chiếc xe máy hiệu Suvina, màu nâu, số máy 231729, số khung 001729; còn nợ lại số tiền 5.715.000 đồng, trả góp trong vòng 11 tháng. Đến nay, ông T chưa trả được khoản nào nên bà S khởi kiện yêu cầu ông T phải trả số tiền còn nợ nói trên và lãi suất 1,125% từ ngày nợ cho đến khi trả nợ xong. Sau khi trả nợ xong thì bà S và ông Lê Văn T1 (người đứng tên xe) sẽ ký giấy bán xe qua cho ông T. Bà S yêu cầu Tòa giải quyết vắng mặt bà cho đến khi có bản án.

* Bị đơn ông Trần Văn T vắng mặt nên không có trình bày.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1 trình bày: Ông là nhân viên của Doanh nghiệp Thanh S chuyên về mua bán xe máy trả góp từ tháng 4/2007 đến tháng 4/2012, ông được bà Hồ Thị Thanh S ủy quyền đứng tên trên các Giấy đăng ký xe cho khách hàng mua xe trả góp, khi khách hàng trả xong tiền góp xe thì ông sẽ liên hệ Phòng Cảnh sát giao thông sang nhượng tên xe cho khách chứ ông không phải là chủ sở hữu các xe mô tô ở Doanh nghiệp tư nhân Thanh S bán cho khách hàng. Ông không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà S và đề nghị Tòa giải quyết vắng mặt ông trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt không có ý kiến trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ các Điều 305, 428, 429, 438, 476 Bộ luật dân sự năm 2005: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc còn nợ theo hợp đồng mua bán xe và lãi suất theo mức 1,125%/tháng từ ngày nợ cho đến ngày xét xử sơ thẩm. Về án phí: bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ mua xe máy trả góp, đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự , thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong hợp đồng mua bán các bên thỏa thuận chọn Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa là nơi cư trú của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nên dù bị đơn cư trú tại huyện Phú Hòa, Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn T1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Trần Văn T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt nên căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Xét tính hợp pháp của Hợp đồng mua bán xe máy: Ngày 07/02/2010, giữa nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S và bị đơn ông Trần Văn T có ký Hợp đồng trả góp mua xe máy; theo đó ông T mua của bà S 01 chiếc xe máy hiệu Suvina, màu nâu, số máy 231729, số khung 001729; còn nợ lại số tiền 5.715.000 đồng, trả góp trong vòng 11 tháng.

Tại Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 26/10/2016 của Công an thành phố Tuy Hòa cung cấp: Xe có số máy 231729, số khung 001729, có biển số 78M1-42XX, do ông Lê Văn T1 đứng tên chủ xe. Quá trình giải quyết vụ án, ông Lê Văn T1 xác nhận mình là nhân viên của nguyên đơn từ tháng 4/2007 đến tháng 4/2012 và được nguyên đơn ủy quyền đứng tên trên các Giấy đăng ký xe bán cho khách hàng, chứ không phải là chủ sở hữu của xe; là phù hợp với thỏa thuận trong hợp đồng; nên có căn cứ xác định tại thời điểm mua bán, xe thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn. Hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn được lập đúng hình thức, nội dung không trái luật, các bên cùng ký xác nhận; do đó, hợp đồng có hiệu lực pháp luật.

[3] Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Căn cứ Hợp đồng trả góp mua xe máy ngày 07/02/2010 (bản gốc) do nguyên đơn cung cấp, thể hiện: ông T mua của bà S 01 chiếc xe máy hiệu Suvina, màu nâu, số máy 231729, số khung 001729; còn nợ lại số tiền 5.715.000 đồng, trả góp trong vòng 11 tháng. Theo trình bày của bà S, từ đó đến nay ông T chưa trả cho bà S được khoản nào. Ông T đã được triệu tập nhiều lần nhưng không đến Tòa và không cung cấp được các chứng cứ thể hiện đã trả nợ. Xét thấy: Theo nội dung hợp đồng mua bán ngày 07/02/2010 thì bị đơn còn nợ lại số tiền mua xe máy là 5.715.000 đồng và đến nay chưa trả cho nguyên đơn là vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng đã ký kết. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền 5.715.000 đồng còn nợ là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Xét yêu cầu tính lãi của nguyên đơn: Căn cứ Hợp đồng trả góp mua xe máy ngày 07/02/2010, các bên thỏa thuận lãi chậm trả bằng 2%/tháng. Như vậy, thỏa thuận về lãi suất của các bên vượt quá quy định pháp luật nên được điều chỉnh lại theo mức không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (lãi cơ bản theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29/11/2010 là 9%/năm). Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chỉ yêu cầu mức lãi suất là 1,125%/tháng trên số tiền chậm trả kể từ ngày chậm trả cho đến khi trả xong là phù hợp nên chấp nhận.

Tiền lãi từ ngày 07/02/2010 đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 30/6/2020 là 10 năm 04 tháng 23 ngày x 5.715.000 đồng x 1,125%/tháng = 8.021.716 đồng.

Tổng cộng gốc và lãi bị đơn có trách nhiệm trả cho nguyên đơn là 13.736.716 đồng.

[5] Khi bị đơn trả xong nợ và có yêu cầu sang tên chủ sở hữu đối với xe mô tô biển số 78M1-4233 thì bà Hồ Thị Thanh S và ông Lê Văn T1 phải thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu xe cho bị đơn. Bị đơn chịu lệ phí sang tên và thuế trước bạ lần 2 như thỏa thuận trong hợp đồng.

[6] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 305, 428, 429, 431, 432, 438, 439 và 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S, buộc bị đơn ông Trần Văn T phải trả cho nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S số tiền mua xe máy còn nợ tính đến ngày 30/6/2020 tổng cộng là 13.736.716 đồng (Mười ba triệu bảy trăm ba mươi sáu nghìn bảy trăm mười sáu đồng); trong đó: tiền nợ gốc là 5.715.000 đồng, tiền lãi là 8.021.716 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 01/7/2020) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Sau khi bị đơn trả hết nợ và có yêu cầu sang tên chủ sở hữu xe mô tô biển số 78M1-42XX thì nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S và ông Lê Văn T1 phải có trách nhiệm làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bị đơn theo quy định pháp luật. Bị đơn chịu lệ phí sang tên và thuế trước bạ lần 2 như thỏa thuận trong hợp đồng.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án năm 2009 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị đơn ông Trần Văn T phải chịu 687.000 đồng (Sáu trăm tám mươi bảy nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn lại cho nguyên đơn bà Hồ Thị Thanh S 142.875 đồng (Một trăm bốn mươi hai nghìn tám trăm bảy mươi lăm đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 07477 ngày 26/10/2012 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2020/DS-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:42/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về