Bản án 42/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2019/HSST ngày 29/01/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Ngọc T; Sinh năm: 1988 tại Thành phố H; Nơi ĐKHKTT: Số 15 đường D, phường H, quận T, Thành phố H; Nơi cư trú: như trên; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn S và bà Mai Huỳnh Y; Hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có chồng con.

Tiền án, Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 12/10/2018, có mặt.

Bị hại: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1959 (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đỗ Thị Thu T, sinh năm: 1980 (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: 2683A/33/5 Phạm Thế Hiển, phường B, quận T, Thành phố H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/10/2018, trong lúc Lê Ngọc T đang ngồi chơi game tại tiệm Internet tại địa chỉ số 15/7 đường S, phường N, quận T, Thành phố H thì có người bạn tên Chúi (không rõ lai lịch) điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chở theo Đỗ Thị Huỳnh L đến rủ T đi trộm cắp tài sản. Chúi nói với T là trên đường đi đến tiệm Internet, Chúi phát hiện một xe mô tô biển số 59P1-508.94 của ông Nguyễn Văn H dựng trước nhà số 95 đường số 1, ấp H, xã H, huyện B, Thành phố H, không người trông coi. T đồng ý và lên xe để Chúi chở T và Liên đi lấy trộm xe. Khi đến nơi, Chúi dừng xe gần xe của ông H và cùng với L ngồi trên xe cảnh giới, còn T xuống xe, tiến đến gần chiếc xe mô tô biển số 59P1-508.94, đẩy chống đứng, quay đầu xe và đẩy bộ về hướng đường số 1 được khoảng 3 mét thì bị ông Nguyễn Văn H phát hiện và tri hô, T liền bỏ xe lại và chạy về phía Chúi thì bị ông H cùng người dân gần đó bắt giữ giao

Công an xã Bình Hưng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, lập hồ sơ ban đầu rồi chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thụ lý theo thẩm quyền. Riêng Chúi và L đều chạy thoát.

Căn cứ công văn số 1967/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 19/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh đã xác định: 01 xe máy hiệu Lead, biển số 59P1-508.94 trị giá 12.000.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.

Vật chứng trong vụ án: 01 xe mô tô biển số 59P1-508.94.

Tại bản Cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 28/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại phiên tòa, kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt Lê Ngọc T từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Ghi nhận trách nhiệm dân sự và vật chứng đã giải quyết xong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Vào ngày 12/10/2018, tại trước nhà số 95 đường số 1, ấp H, xã H, huyện B, Thành phố H, Lê Ngoc T đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô biển số 59P1-508.94 của ông Nguyễn Văn H. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với kết quả thẩm tra tại phiên tòa.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình. Bị cáo biết việc trộm cắp tài sản hợp pháp của người khác là trái với quy định của pháp luật nhưng vì vụ lợi nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 12.000.000 đồng.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận: Hành vi của bị cáo Lê Ngọc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xét thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả lại cho bị hại, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại các điểm h, i, s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Ngọc T từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” là phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về vật chứng: 01 xe gắn máy hiệu Lead, biển số 59P1-508.94: Qua xác minh, chủ sở hữu xe là bà Đỗ Thị Thu T (vợ của ông Nguyễn Văn H). Ngày 12/10/2018, ông H điều khiển chiếc xe nêu trên đến nhà số 95 đường số 1, ấp 2, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, dựng trước nhà và bị chiếm đoạt như nội dung nêu trên. Cơ quan điều tra đã giao trả lại cho chủ sở hữu là bà T là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị hại ông Nguyễn Văn H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Thu T vắng mặt tại phiên tòa nhưng hồ sơ vụ án thể hiện bà T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, ông H, bà T không có yêu cầu về dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với đối tượng tên Chúi là người đã khởi xướng, rủ rê bị cáo T cùng thực hiện hành vi phạm tội và đứng ngoài cảnh giới cho T lấy trộm tài sản, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý.

Đối với đối tượng Đỗ Thị Huỳnh L là người đã cùng với đối tượng Chúi và bị cáo T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra Đỗ Thị Huỳnh L đã đi khỏi nơi cư trú nên chưa lấy được lời khai Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã ra thông báo truy tìm, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2018.

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã giao trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Thu T 01 xe gắn máy hiệu Lead, biển số 59P1-508.94.

Ghi nhận người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Thu T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt trái phép, bà T và bị hại ông Nguyễn Văn H không có yêu cầu về dân sự đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 135, khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Lê Ngọc T chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được toàn sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về