Bản án 42/2019/HSST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 42/2019/HSST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 29/7/1978 tại: Xã Chiềng Pấc, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản M Đ, xã C P, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Nguyễn Văn N, sinh năm: 1945 và bà Trần Thị V, sinh năm: 1950; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số: 72/2009/HSST ngày 16/6/2009, bị tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đã xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 24 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong vụ án này bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 18/12/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 00 phút ngày 18/12/2018, tại khu vực bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang đối tượng Nguyễn Văn T ( SN: 1978, trú tại: Bản M Đ – C  P - Thuận Châu - Sơn La) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng hồng ( Theo đối tượng Th khai nhận là Heroine và hồng phiến);

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, BKS: 26H8 – 8098.

Kết quả cân tịnh số bột cục màu trắng hồng thu giữ của đối tượng Thành có khối lượng 0,13 gam, trích rút 0,10 gam đánh ký hiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định, số còn lại 0,03 gam đánh ký hiệu T2 đã niêm phong.

Tại bản Kết luận giám định số: 107/KLMT ngày 21/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy; loại chất Heroine và Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được của Nguyễn Văn T là 0,13 gam loại Heroine và Methamphetamine. ( Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định ).

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Nguyễn Văn T đã khai nhận như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 18/12/2018, Nguyễn Văn T một mình điều khiển xe máy BKS: 26H8 – 8098 từ nhà mình ở bản Máy Đường, xã Chiềng Pấc, huyện Thuận Châu đến xã Thôm Mòm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn thì Thành gặp và mua được của 01 người phụ nữ  dân tộc Thái không quen biết đang đứng bên đường một lượng ma túy được gói bằng mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong là Heroine và Hồng phiến trộn lẫn với giá 50.000đ ( Năm mươi nghìn đồng ). Sau khi mua được ma túy thì T rẽ vào bụi cây ven đường san ra một ít sử dụng. Số còn lại T dấu vào túi áo khoác đằng trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy rẽ ra Quốc lộ 6 để về nhà. Tuy nhiên khi đi đến đoạn đường thuộc khu vực bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu thì bị tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang cùng với vật chứng là 01 gói ma túy như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 35/CT-VKS ngày 21/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Nguyễn Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn T, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 16 đến 20 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số chứng là 0,03 gam Heroine.

- Chấp nhận việc cơ quan Điều tra đã giao trả 01 chiếc xe máy BKS: 26H8 – 8098 cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị O.

Tại phiên tòa bị cáo T có ý kiến: Thừa nhận do nghiện ma túy nên ngày 18/12/2018 đã đến bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã thực sự nhận thức được tác hại của ma túy. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 18/12/2018, bị cáo Nguyễn Văn T ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý ( 0,13 gam Heroine  và Methamphetamine) với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước là xâm hại đến chính sức khỏe của bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần  phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết nhân thân: Bị cáo đã từng bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy ( Bản án số: 72/2009/HSST ngày 16/6/2009 của bị tòa án nhân dân huyện Thuận Châu ) tuy đã được xóa án tích nhưng cũng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu để xem xét khi lượng hình phạt theo Điều 50 Bộ luật hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ:  Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[9] Xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng 0,03 gam Heroine và Methamphetamine ( Số còn lại sau khi trích rút 0,10 gam gửi giám định ) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời là vật nhà nước cấm lưu hành. Do vậy cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với việc xử lý vật chứng của cơ quan Điều tra đã giao trả lại chiếc xe máy BKS: 26H8 – 8098 cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị O. Xét là có căn cứ chấp nhận bởi lẽ: Khi cho bị cáo mượn xe máy chị O ( Chị gái bị cáo ) không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy.

[10] Đối với nguồn gốc 0,13 gam Heroin và Methamphetamine bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người phụ nữ dân tộc Thái không quen bên đường bản Lọng Cại, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở, để điều tra làm rõ.

[11] Bị cáo thuộc hộ gia đình nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[12] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 - điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 14 ( Mười bốn ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 18/12/2018 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: Chất bột cục màu trắng hồng là ma túy, loại Heroine và Methamphetamine, có khối lượng 0,03 gam ( Ký hiệu T2 ) + 01 mảnh giấy một mặt màu trắng một mặt màu vàng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên đều được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ, dán kín, mặt trước ghi: “ Vật chứng nhập kho vụ Nguyễn Văn T

- Tàng trữ trái phép chât ma túy, bắt ngày 18/12/2018 ”.

3. Án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

- Miễn cho bị cáo không phải nộp án án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HSST ngày 19/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:42/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về