TÒA ÁN NHÂN DÂN HỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở TòA án nhân dân Hện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 242/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về việc tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/10/2019 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Lê Thị T – Sinh năm: 1994;
Nơi cư trú: Khu phố M, thị trấn P, Hện T, tỉnh Phú Yên. Có đơn xin vắng mặt.
* Bị đơn: Anh Nguyễn Thái H – Sinh năm: 1989;
Nơi cư trú: Khu phố P, thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Triệu tập hợp lệ lần thứ hai, vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và quá trình làm việc, chị Lê Thị T trình bày: Chị T và Anh Nguyễn Thái H tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có tổ chức đám cưới theo phong tục truyền thống và đăng ký kết hôn năm 2013 tại UBND thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên. Trong quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn, do hai bên tính tình không hợp nhau nên thường cãi vã. Anh H không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình. Sự việc mâu thuẫn kéo dài, hai bên gia đình đã hòa giải cho hai vợ chồng hòa thuận nuôi con nhưng Anh H không thay đổi. Từ đầu năm 2019 đến nay, chị T và Anh H không sống chung hay thăm hỏi gì nhau. Nhận thấy tình cảm không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn Anh H để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Quá trình chung sống, chị T và Anh H có 02 con chung. Cháu lớn tên Nguyễn Lê Nhã A – Sinh ngày 07/3/2014; cháu nhỏ tên Nguyễn Khôi N – Sinh ngày 28/4/2016. Từ khi sống xa nhau, hai cháu đều sống cùng mẹ nên khi ly hôn chị T có nguyện vọng nuôi 02 con chung, không yêu cầu Anh H cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn Anh Nguyễn Thái H có mặt, sinh sống tại địa phương, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Toà án nhân dân Huyện Đông Hòa không lấy được lời khai của Anh H và không tiến hành hoà giải được.
Quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa cho rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuân theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định, đảm bảo cho đương sự thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Các đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Chị T được ly hôn Anh H. Về con chung: Giao hai con chung tên Nguyễn Lê Nhã A – Sinh ngày 07/3/2014; cháu nhỏ tên Nguyễn Khôi N – Sinh ngày 28/4/2016 cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thái H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Thái H có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, được thẩm trA tại phiên tòa; ý kiến của đương sự tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, Anh Nguyễn Thái H đã được Tòa án triệu tập lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, do đó Toà án xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và Anh H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên vào năm 2013 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống, chị T và Anh H xảy ra mâu thuẫn. Anh H không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình. Dù đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng mâu thuẫn của chị T và Anh H vẫn xảy ra và kéo dài, đời sống hôn nhân không hạnh phúc. Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết đơn yêu cầu ly hôn của chị T, Anh H vẫn có mặt ở địa phương. Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, lấy lời khai, hòa giải nhưng Anh H không chấp hành, không hợp tác, không thể hiện ý kiến nguyện vọng gì trước yêu cầu khởi kiện của chị T. Trong khi đó, chị T kiên quyết xin được ly hôn Anh H. Do đó, không thể duy trì quan hệ hôn nhân giữa chị T và Anh H mà cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T về việc xin ly hôn Anh H, để các bên ổn định cuộc sống.
[3]. Về con chung: Chị T và Anh H có hai con chung tên Nguyễn Lê Nhã A – Sinh ngày 07/3/2014; cháu nhỏ tên Nguyễn Khôi N – Sinh ngày 28/4/2016.
Chị T có nguyện vọng được nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu Anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy từ trước đến nay chị T vẫn là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung nên tiếp tục giao hai con chung cho chị T nuôi dưỡng để ổn định cuộc sống của các cháu.
[4]. Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên Tòa không xét.
[5]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về xin ly hôn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
2. Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T Về hôn nhân: Chị Lê Thị T được ly hôn Anh Nguyễn Thái H.
Về con chung: Giao hai con chung tên Nguyễn Lê Nhã A – Sinh ngày 07/3/2014; cháu nhỏ tên Nguyễn Khôi N – Sinh ngày 28/4/2016 cho bà Lê Thị T nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thái H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Nguyễn Thái H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung không ai được ngăn cản.
3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án, chị Lê Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0014108 ngày 27/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự Huyện Đông Hòa.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 42/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về