Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 22 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 183/2019/TLST-HNGĐ, ngày 07 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 76/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/6/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lại Nhục B, sinh năm 1986

HKTT: Ấp TV, xã BH, huyện TB, tỉnh Đồng Nai

- Bị đơn: Chị Liều Thị Bé H, sinh năm 1986.

Nơi cư trú cuối cùng: A, khu A, ấp TV, xã BH, huyện TB, T. Đồng Nai.

(Anh B, chị H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình tiến hành tố tụng anh Lại Nhục B trình bày:

Anh và chị Liều Thị Bé H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bàu Hàm, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai vào ngày 18/03/2013, số 020, quyển số 01. Cuộc sống chung của vợ chồng anh không hạnh phúc, nguyên nhân là do vợ chồng không hiểu tính nhau, về lối sống, quan điểm sống không phù hợp, thường xuyên cãi vã nhau. Đến tháng 05/2014, chị H đã bỏ nhà đi biệt tích đến nay, anh đã báo công an xã, và tìm mọi cách để tìm kiếm nhưng không có kết quả hay thông tin gì từ chị H. Đến năm 2018, anh đã yêu cầu Tòa án tuyên bố chị Liều Thị Bé H mất tích và Tòa án đã tuyên bố chị Liều Thị Bé H mất tích theo Quyết định số 25/2018/QĐST-DS, ngày 28/9/2018. Đến nay, chị H vẫn biệt tích, anh và con không biết chị H đang ở đâu, làm gì và thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân cũng không đạt được nên anh xin Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Liều Thị Bé H.

- Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Lại Hoài TH, sinh ngày 19/8/2013. Ly hôn anh xin được trực tiếp nuôi con và tạm thời không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Về Nợ chung: Anh B cam kết vợ chồng anh không có nợ chung.

- Về án phí: Anh B xin tự nguyện chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương về mâu thuẫn vợ chồng của anh B và chị H, kết quả xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng anh B và chị H không hạnh phúc và chị H đã bỏ đi từ năm 2014 đến nay không thấy về. Tòa án đã tiến hành niêm yết thông báo thụ lý vụ án cho chị H nhưng chị H không gửi cho Tòa án ý kiến của mình đối với yêu cầu của anh B và cũng không giao nộp tài liệu, chứng cứ. Tòa án đã nhiều lần niêm yết Thông báo, giấy triệu tập chị H đến Tòa án để lấy lời khai đối chất; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị H không đến Tòa án làm việc.

Ý kiến của Viện Kiểm sát: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật về tố tụng, bảo đảm sự vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ án. Về nội dung tranh chấp: Cuộc sống hôn nhân của anh Lại Nhục B, chị Liều Thị Bé H không có hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh B. Giao con chung là Lại Hoài TH, sinh ngày 19/8/2013 cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng. Anh B khai không có nợ chung, tài sản chung và chị H cũng không có ý kiến nên Tòa án không giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

Về tố tụng: Chị Liều Thị Bé H đã được Tòa án tuyên bố mất tích nên Tòa án không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho chị H được. Để đảm bảo thủ tục tố tụng, Văn phòng Thừa Phát lại, Tòa án và chính quyền địa phương đã lập biên bản ghi nhận việc không thể tống đạt trực tiếp cho chị H được và niêm yết: “Thông báo thụ lý vụ án”,“Giấy triệu tập”,“Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ và hòa giải”, “Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”, “Thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ” tại địa chỉ nơi chị H cư trú cuối cùng, tại trụ sở UBND xã Bàu Hàm và trụ sở Tòa án đúng thời hạn luật định nhưng chị H vẫn không đến Tòa án làm việc. Do chị H đã được thông báo nhiều lần nhưng vẫn không đến tham gia phiên họp nên Tòa án đã lập biên bản ghi nhận việc không thể tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được. Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa do vắng mặt chị H cũng đã được tiến hành niêm yết công khai theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy chị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn anh Lại Nhục B có đơn xin xét xử vắng mặt căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh B.

Về nội dung tranh chấp: Anh B yêu cầu ly hôn với chị H, xin được trực tiếp nuôi con chung là Lại Hoài TH, sinh ngày 19/8/2013 và tạm thời không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con; nợ chung không có, tài sản không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Các nội dung này đã được Tòa án ghi rõ trong các Thông báo mà chị H đã được niêm yết hợp lệ nhưng chị H không có ý kiến phản đối, không giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Trên cơ sở lời khai, lời trình bày của anh B, kết quả xác minh tại địa pH thì thấy cuộc sống chung của anh B và chị H không có hạnh phúc, không có sự yêu tH, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Trên thực tế, chị H đã bỏ đi khỏi nhà và địa phương từ năm 2014 đến nay, không quan tâm, chăm sóc chồng con. Tòa án đã nhiều lần niêm yết hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai tiếp cận chứng cứ và hòa giải cho chị H để tiến hành hòa giải nhưng chị H không đến, cho thấy chị H không có thiện chí trở về đoàn tụ với anh B. Đồng thời chị H đã mất tích theo Quyết định số 25/2018/QĐST-DS, ngày 28/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom theo quy định tại Khoản 2 Điều 68 Bộ luật dân sự năm 2015. Do vậy yêu cầu của anh B về việc xin ly hôn với chị H là có cơ sở chấp nhận.

[2] Về con chung: Anh B xin được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Lại Hoài TH, sinh ngày 19/8/2013 và tạm thời không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con. Chị H đã được Tòa án thông báo và triệu tập nhiều lần nhưng chị H vẫn không đến Tòa làm việc và cũng không có ý kiến về vấn đề nuôi con chung và cấp dưỡng nên Tòa án căn cứ chứng cứ kết quả xác minh tại địa phương để xem xét về điều kiện nuôi con của các bên. Xét về điều kiện nuôi con thì thấy từ năm 2014 đến nay cháu TH do anh B trực tiếp nuôi dưỡng có nơi cư trú ổn định nên căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của anh B giao cháu Lại Hoài TH, sinh ngày 19/8/2013 cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Do anh B không yêu cầu nên tạm thời chị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về nợ chung và tài sản chung: Anh B cam kết anh và chị H không có nợ chung và tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị H đã được Tòa án thông báo về các ý kiến, yêu cầu này của anh B nhưng cũng không có ý kiến gì. Do vậy Tòa án không giải quyết về tài sản chung và nợ chung của anh B và chị H trong vụ án này.

[4] Về án phí ly hôn: Anh Lại Nhục B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn được quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[5] Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 2 Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 vả Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Anh Lại Nhục B.

Anh Lại Nhục B được ly hôn với chị Liều Thị Bé H.

2. Về con chung: Giao cháu Lại Hoài TH, sinh ngày 19/8/2013 cho anh Lại Nhục B trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm thời chị Liều Thị Bé H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không ai được ngăn cản quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung của chị Liều Thị Bé H. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, về nợ chung: Không xem xét giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Anh Lại Nhục B phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm anh B đã nộp theo biên lai thu số: 001426, ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom. Anh B đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Anh Lại Nhục B có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Liều Thị Bé H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2019/HNGĐ-ST ngày 22/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:42/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về