Bản án 42/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIÊN KHÁNH - TỈNH KH

BẢN ÁN 42/2018/HS-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 8 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 39/2018/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2018/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê ĐV (tên gọi khác: VT) - sinh năm 1983 tại KH; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: thôn Xuân Phong - xã Vĩnh Phương - tp. NT - KH; Tạm trú: thôn Phú Nông - xã Vĩnh Ngọc - tp. NT - KH; Nghề nghiệp: thợ sơn nước; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Đức N (chết) và bà Trần Thị T (1956); Có 01 con sinh năm 2006; Tiền sự: không; Tiền án: Bản án số 23/2011/HSST ngày 26/4/2011 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong ngày 31/01/2012. + Bản án số 299/2013/HSST ngày 05/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Mê Thuột xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong ngày 28/4/2014. + Bản án số 73/2015/HSST ngày 16/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Chấp hành xong ngày 27/9/2016; Bị bắt tạm giam ngày 15/4/2018; Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Trần Văn N - sinh năm 1997

Trần Thị Thu O - sinh năm 1970

Trần Như Q - sinh năm 1999

Trú tại: tổ dân phố Phú Lộc Đông 2 - thị trấn Diên Khánh - Diên Khánh - KH; Tất cả đều vắng mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Võ Thị ML - sinh năm 1980

Trú tại: Tổ dân phố 7 Giếng Trung - thị trấn Cam Đức - CL - KH.

Vắng mặt tại phiên tòa.

- Lê Thị KL - sinh năm 1974

Trú tại: thôn Xuân Lạc - Vĩnh Ngọc - tp. NT - KH.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền mua ma túy để sử dụng nên khoảng 02 giờ 00 phút, ngày 15/11/2017, Lê ĐV sử dụng xe đạp đi từ thành phố NT đến huyện Diên Khánh để tìm tài sản trộm cắp. Khi đến khu vực tổ dân phố Phú Lộc Đông 2 - thị trấn Diên Khánh thì phát hiện nhà anh Trần Văn N đang sửa chữa, không có cửa ra vào, trong nhà mở đèn, trên cửa sổ có để hai điện thoại di động hiệu Oppo NEO 7 và FPT của anh N và mẹ anh N là bà Trần Thị Thu O đang sạc pin. V đi đến rút dây sạc, lấy hai điện thoại cất giấu vào túi quần. Sau đó, V đến gian nhà dưới, nhìn thấy chị Trần Như Q (em gái anh Nhật) đang ngủ trên giường, bên cạnh có để một điện thoại di động hiệu Oppo Mirro 5, V lấy điện thoại cho vào túi quần rồi đạp xe đi về thành phố NT. Trên đường đi, V lên cơn nghiện ma túy nên bỏ lại xe đạp trên đường, nhờ người đi đường chở đến khu vực lầu 7 thuộc phường Vĩnh Phước - thành phố NT để mua ma túy sử dụng. V cầm cố điện thoại Oppo Mirro 5 được 300.000đ để mua ma túy sử dụng. Đến khoảng 04 giờ 00 phút cùng ngày, Vũ đi bộ đến khu vực xã Vĩnh Lương - thành phố NT tìm tài sản trộm cắp thì bị người dân xung quanh phát hiện và trình báo Cơ quan Công an.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 97/KL-HĐĐGTS ngày 24/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Diên Khánh đã xác định tổng giá trị tài sản trong vụ trộm cắp tài sản ngày 15/11/2017 tại tổ dân phố Phú Lộc Đông 2 - thị trấn Diên Khánh - Diên Khánh - KH là 5.445.000đ (01 điện thoại di động hiệu Oppo NEO 7 có giá trị là 2.175.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Oppo Mirro 5 có giá trị là 3.000.000đ, 01 điện thoại di động hiệu FPT có giá trị 270.000đ).

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Diên Khánh, Lê ĐV đã khai nhận hành vi phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 37/CT-VKSDK ngày 26/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh đã truy tố bị cáo Lê ĐV về tội “Trộm cắp tài sản tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh - tỉnh KH giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999 xử phạt bị cáo Vũ từ 02 năm 6 tháng đến 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự: không xét phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo với những người bị hại. Về vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 biển kiểm soát xe mô tô 79N1-239.94, 01 giấy đăng ký xe mô tô số 0161962, 01 đoản mở khóa, 01 ống điếu mở khóa. Án phí: đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình giải quyết vụ án, các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng: anh Trần Văn N, bà Trần Thị Thu O và chị Trần Như Q là người bị hại, có đơn xin xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Võ Thị ML, Lê Thị KL vắng mặt nhưng sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử xử vắng mặt đối với những người này.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định ngày 15/11/2017, lợi dụng sự sơ hở của gia đình anh Nhật, bị cáo đã lén lút lấy 03 điện thoại di động của anh N, bà O và chị Q. Bản thân bị cáo là người đã có 03 tiền án về hành vi chiếm đoạt tài sản nên lần phạm tội này của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c (tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh truy tố bị cáo theo tội danh và điểm, khoản, Điều nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Sau khi phạm tội, bị cáo lại bỏ trốn gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho người bị hại, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo để bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự : Người bị hại anh Trần Văn N, bà Trần Thị Thu O, chị Trần Như Q đã nhận lại toàn bộ tài sản và đã được bồi thường, không có yêu cầu gì và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng : 01 điện thoại di động hiệu BBV, 01 đồng hồ dây da màu nâu là tài sản riêng của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

01 biển kiểm soát xe mô tô 79N1-239.94 bị cáo nhặt được. Qua xác minh xác định biển kiểm soát này thuộc quyền sở hữu của Lê Thị KL nên cần trả lại cho chị Loan.

01 giấy đăng ký xe mô tô số 0161962, bị cáo cho rằng bị cáo mua xe cũ nên chủ xe sau khi giao xe, chỉ đưa giấy đăng ký xe cho bị cáo nhưng bị cáo không chứng minh được điều này, giấy đăng ký xe mô tô mang tên chị Võ Thị ML nên cần trả lại cho chị Lợi.

01 đoản mở khóa, 01 ống điếu mở khóa là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án ph í:

Vì các lẽ trên,

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự 1999 đối với bị cáo Lê ĐV (VT).

Xử phạt: Bị cáo Lê ĐV (VT) 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2018.

 Về trách nhi ệm dân sự : không xét phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo Lê ĐV với những người bị hại Trần Văn N, Trần Thị Thu O, Trần Như Q.

 Về vật chứng : áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự 1999. Trả lại cho bị cáo Lê ĐV 01 (một) điện thoại di động hiệu BBV, 01 (một) đồng hồ dây da màu nâu.

Trả lại cho chị Lê Thị KL 01 (một) biển kiểm soát xe mô tô 79N1-239.94. Trả lại cho chị Võ Thị ML 01 (một) giấy đăng ký xe mô tô số 0161962. Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) đoản mở khóa, 01 (một) ống điếu mở khóa.

(Tình trạng và đặc điểm vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 05/7/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diên Khánh với Chi cục thi hành án dân sự huyện Diên Khánh - KH).

 Về án phí : Bị cáo Lê ĐV nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 42/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về